Hàng tướng Dương Văn Minh Print
Tác Giả: Mường Giang   
Thứ Ba, 27 Tháng 4 Năm 2010 18:27

30-4-1975, ngày dài nhất của Dương Văn Minh: Tổng Thống cuối cùng của VNCH

Chiều ngày 28-4-1975, Sài Gòn bỗng dưng mưa buồn tầm tả. Mưa không lớn lắm nhưng sao đi trong mưa lại có cảm giác lạnh lẽo não nùng. Chắc là vì nước sắp mất vào tay cọng sản Bắc Việt, cho nên đất trời cũng buồn lây, như cảm thông cho số phận của đồng bào Miền Nam trước cơn binh lửa, trong giờ hấp hối. Vì buồn quá, cho nên mọi người lúc đó có mặt tại Sài Gòn, đều khóc và những giọt lệ sầu đời, đã biến thành trận mưa nước mắt.

Lúc đó đúng 17 giờ 5 phút, trong phòng khánh tiết của dinh Ðộc Lập, đang diễn ra buổi lễ bàn giao chức vụ tổng thống VNCH, giữa Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Ðây là lần bàn giao tổng thống lần thứ hai xảy ra chưa đầy 10 ngày, trong chính quyền Nam VN, giữa lúc đất nước đã mất hơn hai phần ba lãnh thổ và nguy ngập nhất là nửa triệu quân cộng sản Bắc Việt đã ập sát Sài Gòn.

Lúc đó hiện diện trong dinh, gần như có đủ mặt văn võ bá quan cũ mới của Nam Triều chưa kịp chạy. Theo phóng viên Ðài Phát Thanh Sài Gòn mô tả hôm đó, thấy có ba Phó Thủ Tướng Trần Văn Ðôn, Nguyễn Văn Hảo, Dương Kích Ngưỡng, Quốc Vụ Khanh Nguyễn Xuân Phong, thêm Chủ Tich Thượng Viện Trần Văn Lắm và nhiều Nghị Sĩ, Dân Biểu như Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Ân, Trần Cao Ðể, Mã Sái, Hồ Ngọc Cứ, Ðinh Văn Ðệ, Huỳnh văn Cao, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu.. và cả Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện là Trần Văn Tiết.

Ngoài ra còn có hơn 100 phóng viên và nhiếp ảnh tham dự, làm cho quang cảnh buổi lễ bàn giao thật sôi nổi. Vậy mà tân Tổng Thống chỉ mới giữ chức chưa đủ hai ngày, thì đã vội vã đầu hàng giặc, khiến cho đất nước và đồng bào, suốt ba mươi lăm năm qua, phải chịu cảnh lầm than nhục hận và thê thảm nhất là CSVN đã công khai bán nước cho giặc Tàu đỏ qua việc nhường đất, bán đảo, rước ‘ voi về dầy mả tổ ‘ hiện đang gây nên một phong trào chống đối dữ dội bọn ngụy quyền việt gian cộng sản mà đầu sỏ là Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng (đang có mặt tại Hoa Kỳ).

Là người của một giai đoạn lịch sử cận đại, vì Dương Văn Minh chỉ trong vòng 12 năm, đã hai lần chủ chốt trong hai biến cố lịch sử trọng đại của cận sử VN. Ngày 1-11-1963 làm sụp đổ nền Ðệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam. Ngày 30-4-1975 lợi dụng chức vụ tổng thống, tổng tư lệnh, bắt cả nước đầu hàng giặc xâm lăng. Nay ngồi đọc lại lời phát biểu của TT Trần văn Hương trong buổi lễ bàn giao hôm đó, mới thấy thương xót tận cùng cho người lính chiến VNCH “ Một trang sử mới được mở ra, do Ðại Tướng Dương Văn Minh viết. Ông Minh nhậm chức lúc này, không những chỉ vì thiện chí, mà còn là CAN ÐẢM TỪ BỎ GIẢI PHÁP QUÂN SỰ, vì đã chọn con đường Hòa Giải, Hòa Hợp để có Hòa Bình..”
 
Ðúng lúc lễ bàn giao bắt đầu, thì trên bầu trời phản tặc Nguyễn Thành Trung, lái và hướng dẫn 5 phản lực A37 của VNCH bỏ lại, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, đồng thời đặc công Bắc Việt cũng lội vào bờ, chiếm kho tiếp liệu của Usaid bỏ lại sát chân cầu Sài Gòn. Nhiều người lúc đó cho là Ðại Tướng Văn Minh bị bệnh tâm thần, nên mới tin tưởng là cộng sản Hà Nội sẽ ngưng bắn, trong khi chúng sắp chiếm được miền Nam. Họ nói lúc người Mỹ còn ở VN, có tiềm năng quân sự to lớn, và lúc nào cũng có thể tiêu diệt Bắc Việt dễ dàng nếu họ muốn. Thế nhưng trong các lần hội nghị, để tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh bằng con đường hòa bình. Trăm lần như một, người Mỹ đều bị Bắc Việt lừa bịp, tới lần cuối cùng bị TT Nixon ra lệnh oanh tac và phong tỏa Miền Bắc kinh khiếp chưa từng có. Vậy mà sau khi hết bom rơi, Hà Nội vẫn xạo dù chịu ký vào bản hiệp ước ngưng bắn tại Paris tháng 2-1973, vì mấy trăm ngàn bộ đội, thay vì như Mỹ phải rút hết về bên kia vĩ tuyến 17, thì lại được ở lại tại chỗ để tiếp tục xâm lăng Miền Nam.

Trong lúc đó, khi Ðại Tướng Dương Văn Minh lên nắm quyền Tổng Thống VNCH vào chiều ngày 28-4-1975, thì đất nước đang ở vào giờ thứ 25 hấp hối. Vậy chúng ta có điều kiện gì chắc là ghê gớm lắm, để mà bắt cọng sản chịu ngưng bắn, để hòa hợp có hòa bình ?. Nham nhở nhất, là từ sáng ngày 29-4-1975, đài VC lên tiếng phủ nhận luôn chính phủ Dương Văn Minh mới lên tối hôm qua, đồng thời ra lệnh đánh chiếm Gia Ðịnh-Sài Gòn.

 
                    Bút tích đầu hàng của Dương Văn Minh
Sau này Trần Văn Hương có tiết lộ với tác giả ‘ L’Adieu à Sài Gòn ‘ cũng là sử gia người Pháp Jean Larteguy, rằng sự thật Dương Văn Minh cũng giống như ông, chẳng có liên lạc được ai bên phía Bắc Việt, để mà hòa hợp hòa giải. Còn Ðại Tướng Minh cho biết là mình đã tin vào lời của Vũ Văn Mẫu. Rốt cục tất cả đều là những người mù rờ voi, sau đó ảo tưởng đẻ ra kế hoạch vĩ đại đề cứu nước cứu dân, trong khi mặt thật là chẳng nắm được gì hết, ngoài bên cạnh có một đám quân sư xôi thịt xúi bậy làm càn.

Nhân ngày kỷ niệm 17 năm quốc hận vào năm 1992, tờ nguyệt san Phụ Nữ Diễn Ðàn của người Việt Hải Ngoại số đặc biệt, có đăng những bài bút chiến của Bùi Tín, Bùi văn Tùng, Nguyễn Trần Thiết, Bùi Biên Thuỳ,.. quanh hai chủ đề : ‘ Ai là người đầu tiên vào Dinh Ðộc Lập ? và Ai là người có thực quyến lúc đó, nhận sự đầu hàng của TT và Nội Các Dương Văn Minh ?’

Mượn lại danh từ của những người cộng sản trong cuộc đấu võ mồm vô duyên trên, là họ đã biếm xưng lịch sử. Vì thật ra cả bọn chẳng có ai là người đầu tiên bước vào Dinh Ðộc Lập, mà từ xa lắc xa lơ, nơi này đã có hằng tá điệp viên cao cấp Bắc Việt như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Phạm Ngọc Thảo, Trần Ngọc Hiển, Lê Ðình Ẩn, Ðinh Văn Ðệ.. bước chân vào.

Riêng việc đầu hàng cộng sản của Dương Văn Minh thì cũng chẳng có gì là lạ, vì Ðại Tướng là Thủ Lãnh của Lực Lượng Thứ Ba, có chủ trương Phản Gián qua lớp võ Hòa Giải, để đầu hàng giặc từ lúc chưa được lên ngôi Tổng Thống vào những ngày cuối tháng 4-1975. Có khác chăng, là phải đóng kịch đầu hàng như thế nào, để sau này trước Tòa Án Lương Tâm và trên trang lịch sử, Tổng Thống Dương Văn Minh được trắng án và tiếng thơm là người yêu nước, vì đã dám hy sinh ở lại giữa chốn ba quân, trong lúc giặc xâm lăng đã ập sát biên thành.

Vì vậy từ lúc nhận lời đuổi Mỹ, tới khi lên đài ra lệnh cho quân đội buông súng rã ngủ, thời gian từ trưa 29-4-1975 cho tới trưa 30-4-1975, tổng thống không hề chợp mắt. Ðây là thời gian dài nhất trong đời làm chính trị của một vị nguyên thủ cuối cùng của VNCH, tuy ngắn ngủi nhưng lại bị tai tiếng nhất trong dòng Việt Sử cận đại.

Ba mươi lăm năm qua, kể từ ngày Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho QLVNCH buông súng rả ngủ, giúp cho cọng sản Bắc Việt kết thúc sớm cuộc chiến xâm lăng Miền Nam. Cũng kể từ đó, đã có nhiều tài liệu của mọi phía liên hệ tới cuộc chiến, bật mí vén màn bí mật những uẩn khúc một thời, mà nguời Việt đọc tới, cứ tưởng như đang trong mộng, vì tất cả đều do bàn tay lông lá của ngoại bang dàn dựng.

Riêng về sự nghiệp của tổng thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh, cũng có rất nhiều nhưng chỉ có các bài viết của ký giả Pierre Denicron và ‘ Decent Interval ‘ của Frank Sneep.. là viết rõ ràng nhất.

Theo ‘ Những Ngày Cuối Cùng VNCH ‘ của Nguyễn Khắc Ngử xuất bản sau năm 1975 tại Canada, thì ngay khi Bắc Việt vừa chiếm được Cao Nguyên Trung Phần (QDII) ngày 24-3-1975. Nhận thấy thời cơ đả tới. Ðó chính là lý do mà Ðại sứ Pháp tại Sài Gòn, J.M.Mérillon, tiếp xúc với LLTB, áp lực Mỹ thay ngựa hết TT. Thiệu tới TT.Hương và tìm đủ mọi cách đưa Dương Văn Minh lên ghế Tổng Thống VNCH.

Những ngày chuẩn bị lên ngôi vua

Người Pháp hết bị Nhật rồi tới VN đánh đuổi ra khỏi Ðông Dương một cách nhục nhã và thảm bại vào năm 1955, nhưng De Gaule và thực dân lúc nào cũng hằng nuôi ảo vọng trở lại làm trùm miền đất này. Ðó chính là những ngày cuối tháng 4-1975, giữa lúc VNCH đang hấp hối vì Hoa Kỳ phản bội, đại bàng bỏ trốn, Việt gian đâm sau lưng, tạo dịp tốt ngàn năm một thuở, cho Pháp nhảy vào ăn ké hốt hụi chót, được hay thua cũng không bị lỗ vốn.

Từ ngày 18-4-1975 Hoa Kỳ coi như đã dứt khoát bỏ VN, qua vai trò của đại sứ Martin. Noí chung người Mỹ nhờ Pháp thay thế, lo giùm hậu sự cho cái xác của VNCH đang hấp hối chờ chôn. Bởi vậy Mérilon đã liên hệ khắp nơi, kể cả phái đòan của Bắc Việt trá hình là VC, do Phan Hiền cầm đầu, được Mỹ bảo vệ và cho ở làm gián điệp nơi trại David nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất, để xúc tiến thành lập một chính phủ MA mới tại VNCH, gồm ba thành phần “ Quốc Gia, Cọng sản và Trung Lập “ theo lệnh của Hà Nội.

Ðảng đối lập tức Lực lương thứ ba lúc đó, gồm có Thủ Lãnh là Ðại Tướng Dương Văn Minh, hợp với Huỳnh tấn Mẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung.. được Mérilon tiếp kiến ngày 22-4-1975. Riêng Dương văn Minh được giữ lại, chờ nói chuyện với Hà Nội, qua đường dây chuyển tiếp của Toà đại sứ Pháp tại Sài Gòn-Tân Gia Ba-Bắc Việt, do Võ Ðông Giang làm trung gian.

Ðể Miền Nam mau chết, Hoa Kỳ đã quyết định cắt đứt hết mọi quân viện, khiến Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cắt đứt luôn sự liên hệ với Tòa Ðại Sứ. Bởi vậy, trong đêm 20-4-1975, thân hành đại sứ Martin phải vào Dinh Ðộc Lập, áp lưc TT phải từ chúc tức khắc, bằng tối hậu thư của CS Bắc Việt gửi Mỹ.

Một cuộc họp khẩn cấp đã diễn ra trong nội cung, ngoại trừ một số đã bỏ chạy, coi như còn lại đều có mặt. Văn võ bá quan lúc đó đã chia làm hai phe, mà mai mỉa nhất thành phần chủ hòa lại là những chóp bu, bao nhiêu năm cứ ngồi trên đầu thiên hạ như Khiêm, Viên, Quang, Toàn. . Các đại bàng áp lực tổng thống Thiệu phải từ chức, để cùng nhau ra đi, như thế mới có hệ thống quân giai. Theo luật pháp quốc gia, cũng như Hiến Pháp và Quốc Hội, Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay thế chức vụ TT. Nhưng cụ Trần Văn Hương, từ trước tới nay vốn nổi tiếng Diều Hâu, điếc không sợ sấm dù là sấm Chúa hay Phật, một nhân vật chống Cộng cực đoan, tuổi tuy già nhưng đầu óc tỉnh táo và cương quyết. Cho nên ông đâu phải là nhân vật tuyển của thực dân Pháp và giặc xâm lăng Bắc Việt. Bởi vậy Dương Văn Minh được mời ra cứu nước, đó cũng là bài bản tuồng tích đã được sắp xếp, đâu có gì lạ.

Ðể áp lực với tổng thống Hương nhường ngôi cho Dương văn Minh, tối 24-4-1975,cộng sản lại ra thông cáo :

1- Trần văn Hương bù nhìn của Nguyễn Văn Thiệu, phải ra đi.

2-Mỹ phải rút khỏi VN.

3-Không chấp nhận các cơ cấu của VNCH hiện tại.

Như vậy việc Dương văn Minh lên làm tổng thống, nếu có là do ý của cộng sản Hà Nội, chứ không phải do Hiến Pháp VNCH quyết định. Ý đồ cướp nước của giặc đã công khai rõ ràng như ban ngày, vậy mà Tướng Minh và phe nhóm vẫn mù tịt. Khôi hài nhất là việc ông đại sứ Pháp, cứ liên tục thúc hối Tổng thống Trần văn Hương mau từ chức, để Dương Văn Minh kịp cứu dân cứu nước ?

Nhưng cụ Hương tuy tuổi già chứ không lẫm cẩm, hơn nữa lại là thầy của Dương Văn Minh, nên đâu có lạ gì tánh tình và nhân phẩm của người học trò mình. Theo ‘ Saigon et Moi’, chính cụ Hương đã trả lời thẳng với Mérilon như sau ‘ Nước Pháp luôn hái nho trái mùa, tưởng chọn ai, chứ Dương văn Minh không phải là hạng người dùng được, trong lúc dầu sôi lửa bỏng’.

Do các lý do trên, TT Hương không muốn trở thành một tội nhân thiên cổ đối với lịch sử, nên đã khôn khéo trao quyền quyết định cho Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện. Cuối cùng Tướng Minh được chỉ định làm Tổng Thống thứ tư của VNCH, vào lúc 20 giờ 45’ đêm 27-4-1975, với tỷ số 132/02. Rồi lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng khánh tiết, Dinh Ðộc Lập lúc 17 giờ 01 phút, chiều ngày 28-4-1975. Lần nữa Việt Sử cận đại lại được lật sang trang nhưng vô cùng ngắn ngủi, vì tổng thống Dương Văn Minh, chỉ nắm quyền chưa tới 48 giờ, thì mất nước.

30-4-1975, Ngày dài nhất của Tổng Thống Dương Văn Minh

Theo các tác phẩm dẫn thượng, thì suốt 40 giờ tham chính, TT Minh và Nội Các của ông, hoàn toàn làm việc tại Dinh Hoa Lan và dưới sự chỉ đạo kiểm soát của Ðại sứ Pháp gần như 24/24. Jean Larteguy, tác giả ‘ L’adieu à Saigon ‘, có viết rằng cụ Hương trước khi mất, cho tác giả biết, cả ông, Dương văn Minh lẫn Vũ Văn Mẫu, đều chẳng liên lạc được gì với cọng sản Bắc Việt.

Ðiều này cho thấy ông Dương văn Minh cùng phe nhóm, chẳng có một kế hoạch nào để giải quyết cuộc chiến, mà mặt thật chỉ là những người bị cọng sản Bắc Việt lừa bịp, phỉnh gạt mà thôi. Bởi vậy khi Dương Văn Minh vừa đăng quang xong lúc 17 giờ ngày 28-4-1975, lập tức VC cho Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi trường, đồng thời trở mặt tức khắc.

Trong trại David vào đêm 28-4-1975, Võ Ðông Giang bảo thẳng với phái đoàn thương thuyết của Dương Văn Minh, gồm Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng ‘giờ tấn công đã sẵn sàng, nên Dương văn Minh chỉ có hai điều kiện : Ðầu hàng hay không Ðầu hàng ‘.Cả ba sứ giả bị giữ lại làm con tin. Sáng sớm ngày 29-4-1975, Hà Nội lập tức ra thông cáo, đòi tổng thống Minh cùng nội các từ chức, giao Miền Nam cho chúng, ban lệnh đuổi Mỹ, ngưng bắn và đầu hàng vô điều kiện.

Trong lúc ngoài vòng đai thủ đô, các đại đơn vị còn lại của QLVNCH đang tử chiến, để ngăn giặc khắp năm cửa ô, thi Sài Gòn đã hỗn loạn vì sự trốn chạy của Mỹ bằng trực thăng trên mái nhà. Nhiều phi công vì ham sống, đã bỏ chiến đấu, bỏ đồng đội đang tử chiến dưới đất, để bay sang tận Thái Lan, trả máy bay cho Mỹ để đước tới định cư ở Hoa Kỳ.

Theo W.W.Monyer trong ‘ Vietnammese Airforce (1955-1975), thì Mỹ đã thu hồi lại được 132 phi cơ đủ loại, theo lệnh của Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ lúc đó là R.Armitage và E.V Marbod. Các đại bàng lớn nhỏ lần lượt chắp cánh tung trời, từ TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Ðại Tướng Viên, Quang rồi Ðồng văn Khuyên, Vĩnh Lộc, Nguyễn văn Chức, Nguyễn văn Toàn.. đều ra đi.

Tóm lại giặc đang còn tận Biên Hòa, Bến Cát, Long Thành, Củ Chi và Long An.. thì Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư Lệnh KQ,HQ, BTL QDIII và Biệt Khu Thủ Ðô đã tan hàng, khiến Tổng Thống Minh như cua gãy càng, đành gọi bọn sâu bọ Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Hữu Hạnh, Triệu Quốc Mạnh vào dinh cho mang lon trở lại, để giúp ngài có đủ can đảm đầu hàng giặc. Tổng thống đã thức trọn đêm cho tới sáng 30-4-1975, để quyết định một sự kiện lịch sử, mà thật ra khả năng của ông, vốn không bao giờ có thể vói tới được.

Cuốn băng đầu hàng cộng sản, được thực hiện lúc 9 giờ sáng ngày 30-4-1975, tại dinh Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu, sau đó được công bố trên Ðài Phát Thanh Sài Gòn. Còn tên tướng VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh, thì nhân danh Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, đọc nhật lệnh bắt các đơn vị đang chiến đấu với giặc buông súng, đầu hàng. Hai chiếc tăng T54 do Liên Xô chế tạo, mang số 804 và 390, trong Ðại Ðội Chiến xa của Bùi Quang Thận, ủi sập cổng Dinh Ðộc Lập. Tên sinh viên nằm vùng Nguyễn Hữu Thái dẫn đường cho bộ đội Bắc Việt, lên sân thượng tước bỏ Là Cờ Vàng Ba Sọc Ðó của Quốc Dân VN, rồi treo vào đó là cờ dỏm của cái gọi là Mặt Trận GPMN. Tất cả các sự kiện diễn ra lúc 12 giờ 30 ngày 30-4-1975.

Từ đó người VN chịu cảnh đổi đời. Tất cả đều bị rợ Hồ gọi là Nguỵ, lính tráng là Ngụy quân, công chức là Ngụy quyền và đồng bào Miền Nam cũng thành Ngụy Dân. Nhờ Tổng Thống Minh kịp thời đầu hàng, tránh cho Sài Gòn còn nguyên vẹn, kể cả 16 tấn vàng của Ngân hàng quốc gia do Nguyễn văn Hảo giữ, giúp cho Bắc bộ Phủ thâu tóm trọn vẹn tài sản của dân chúng và công khố nhà nước một cách đầy đủ. Từ đó nhờ công cách mạng giải phóng, nên người Việt từ bắc vào nam, chịu chung cảnh người thành vượn, đói rách thảm thê, không có bút mực nào diễn tả cho trọn vẹn.

Cũng từ đó dân chúng căm hờn, đổ hết mọi trach nhiệm cho ông Dương văn Minh, một tổng thống cuối cùng của VNCH, vì ngu muội khiến cho dân chúng lầm than dưới chế độ bạo tàn của đệ tam quốc tế, tạo cợ hội cho đảng cọng sản VN, đem đất đai biển đảo, tài nguyên quốc gia, nhượng bán cho kẻ thù không đội trời chung của Dân Tộc là Trung Cộng. Thế là cuộc bút chiến xảy ra công khai trên báo chí hải ngoại giữa hai phe thương và ghét Dương Văn Minh.

Người ta trách ông Minh không phải là trách ông đã ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng giặc, nhưng trách ông, tự biết mình là người rất ấu trĩ về chính trị, từng là bại tướng của Khánh, Khiêm, Thiệu nhiều lần. Tài năng như vậy, mà dám xưng phong ra nhận lãnh trách nhiệm cứu nước trong giờ thứ 25, khiến cho nước non phải thảm nhục.

Người ta trách ông Minh ham sống sợ chết, không biết hành xử xứng đáng với cương vị và thân phận của mình. Ðường đường là một Ðại tướng, Lãnh tụ phe thứ ba và trên hết là Tổng thống của một nước nhưng ông Dương Văn Minh, đã cố tình làm ngơ, các gương trung liệt nghĩa khí của người xưa, gương anh hùng bất khuất của thuộc hạ trước mắt ‘ Chết để giữ tròn khí tiết, chết vinh hơn sống nhục ‘.

Thật vậy hoàn cảnh của tướng Minh, đâu khác gì thảm trạng của hai tướng giữ thành Bình Ðịnh, vào năm Tân Dậu 1801. Lúc đó thành bị Tây Sơn vây hãm lâm vào cảnh tuyệt lộ, trong không lương ngoài chẳng binh cứu. Trong nổi tuyệt cùng, Võ Tánh và Ngô Tùng Chu đã viết thư cho tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu ‘ Phận ta làm chủ tướng, thì đành liều chết dưới cờ. Còn tướng sĩ không có tội tình gì, không nên giết hại ‘.Sau đó Võ Tánh tự đốt chết, còn Ngô Tùng Châu uống thuốc độc chết.

Trưa 30-4-1975, khi TT Minh ra lệnh QLVNCH buông súng đầu hàng. Nhiều binh sĩ đang chiến đấu tại mặt trận đã tự tử chết, vì họ không muốn đối mặt với kẻ thù tàn ác dã man. Các tướng lãnh Phạm Văn Phú (Tư Lệnh QD2), NguyễnKhoa Nam (Tư lệnh QD4), Lê văn Hưng (Tư Lệnh Phó QD4), Lê Nguyên Vỹ (Tư lệnh SD5BB), Trần Văn Hai (Tư Lệnh SD7BB).. kẻ trước người sau, quyên sinh để bảo toàn khí tiết cho quân đội Miền Nam nói chung và danh dự của một cấp chỉ huy, lúc sa cơ thất thế.

Trái lại Ðại Tướng cũng là Tổng thống Dương Văn Minh, khúm núm ra trình diện trước các tên cán binh tép riu của Bắc Việt như Bùi Quang Thận, Ðại Ðội Trưởng, DD Chiến Xa, để rồi bị chủ nhiệm chính tri của đoàn xe tăng mang số 203, tên Lê Văn Minh nạt nộ :’ các anh đã bị bắt, không có bàn giao gì cả ‘.

Mới đây đào hát cởi truồng một thời phản chiến Jane Fonda, vì muốn quảng cáo cho một tuỳ bút nói về chuyện tình của mình, đã lên đài CBS, nhỏ những giọt nước mắt cá sấu, để nhận tội phản quốc với Hoa Kỳ, khi ả sang Bắc Việt, vào năm 1972, ngồi trên các khẩu cao xạ chửi Mỹ. Câu chuyện khôi hài của đám con buôn chính trị thập thành cũng chẳng có gì lạ nhưng đối với người Việt tị nạn, thì lại có một ý nghĩa, vì ít ra cô đào hát còn có can đảm nhận sự sai lầm của mình. Trong lúc đó thử hỏi những kẻ từng đâm sau lưng người lính đã hy sinh cho họ, hiện nay đang sống nơi hải ngoại, có ai dám muối mặt như Fonda để nhận sai trái năm nào, dù thời gian tới 35 năm và mặt nào phản chiến, phản tặc, tới nay ai cũng đều biết.

Thanh niên nam nữ, miền Nam VN, thế hệ sinh từ 1900 về sau, thường mượn tư tưởng làm trai của Nguyễn Công Trứ, để làm hành trang xử thế khi vào đời :

‘ Ðã mang tiếng đứng trong trời đất
phải có danh gì với núi sông ‘

Còn ông Dương văn Minh lại là một nhân vật lớn của lịch sử, tại sao không vì lịch sử, mà lưu lại cho hậu thế cái khí tiết ‘ Nhất Tướng Công Thành, Vạn Cốt Khô ?’

Thì ra con người cũng có năm bảy hạng người .


Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di. Tháng Tư Ðen 2010,Mường Giang