Home Văn Học THƠ Các thi sĩ Cầu bao nhiêu nhịp...

Cầu bao nhiêu nhịp... PDF Print E-mail
Tác Giả: Bích Huyền   
Thứ Bảy, 06 Tháng 12 Năm 2008 16:12

Dãy hành lang chạy dài, chan hòa ánh nắng. Mảnh sân vuông trầm tư trong những ngày vắng học sinh. Nga thường có những giờ văn dạy bồi dưỡng cho học sinh giỏi của quận và của thành phố vào những buổi này. Đối với Nga, đây là một niềm vui, một hạnh phúc nhỏ nhoi khó tìm thấy trong quãng đời dạy học đều đều, buồn chán sau 1975. Học sinh: qua những kỳ thi của trường, của quận, chọn lọc mới được theo học các lớp này. Các em đã giỏi, lại ngoan, nhất là có tinh thần say mê học tập. Chương trình: do giáo viên tự biên soạn, tự chọn. Giờ dạy: không phải đủ "năm bước lên lớp" rập khuôn, cứng ngắc. Một lớp chỉ có khoảng mười lăm học sinh, ngoài những tiết học trong chương trình phổ thông, các em được học với ba giáo viên dạy bồi dưỡng.

Đây là một trong những chỉ tiêu thi đua lớn của ngành giáo dục toàn quốc để công nhận danh hiệu thi đua. Cho nên ngân sách của Quận tốn kém khá nhiều vào công tác này.

Khi Sài Gòn bị mất, tất cả các giáo viên dạy môn Việt Văn đều bị "xét lại", bởi quan niệm của nhà cầm quyền Cộng sản là "dạy Văn là dạy chính trị." Những giáo viên có bố mẹ, chồng con là "Ngụy" phải chuyển làm văn phòng hoặc dạy tạm môn khác.

Chất lượng về môn Văn của học sinh giảm sút tới mức báo động.

Những năm sau, giáo viên lần lượt trở lại với đúng chức năng của mình. Về tư tưởng chính trị đã có những giáo viên của Đoàn, Đảng phụ trách. Các đề thi về sau, càng bớt "mùi" chính trị, đấu tranh...

Nga bước vào lớp học. Chùm hoa ti-gôn màu hồng lay động trong lọ hoa nhỏ như chào đón. Lớp học ít học sinh nhưng ấm cúng vì tình thầy trò rất gần gũi với nhau. Nga đưa mắt thân yêu nhìn tất cả các em, nàng mỉm cười. Những ánh mắt long lanh chờ đợi. Bảng đen, phấn trắng sẵn sàng để Nga ghi tựa đề bài giảng...

Qua cầu ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu...

Người phụ nữ đã gửi gấm tâm trạng gì trong câu ca dao này? Em hãy phân tích nghệ thuật diễn đạt của câu ca dao để tìm hiểu giá trị gợi cảm của nó. Miệng nói, tay ghi, và những hình ảnh trong quá khứ chập chờn, chập chờn...

"Về nội dung, câu ca dao phản ảnh nỗi buồn da diết và mênh mông của người phụ nữ. Các em có thể tưởng tượng đây là tâm trạng của một người con gái vừa mới chia tay người yêu để không bao giờ gặp lại. Về nghệ thuật, cần phân tích cao mặt âm điệu, hình ảnh, từ ngữ gợi tả."

Mười lăm phút thăm nuôi, mười lăm phút thoáng qua như giấc mộng. Tôi và Hưng chia tay không một lời từ giã. Chỉ có những ánh mắt xót xa. "Mấy phút bên nhau rồi thôi..." Khi bóng Hưng khuất sau khúc quanh cuối đường, tôi có ngờ đâu đó là lần vĩnh biệt.

Mảnh giấy nhỏ, vết cuộn tròn, chữ viết vội vàng: "Trung tá Hưng, nhà ở số 45 hay 50 đường Tự Đức, quận I, có vợ vừa đi thăm nuôi, đã bị chết..." Mảnh giấy với mẩu tin oan nghiệt. Cả nhà sững sờ. Tôi nhận tin đau đớn. Cổ khô. Mắt ráo hoảnh. Tôi không khóc được...
*
Về âm điệu, với thể thơ lục bát biến thể, câu dưới kéo dài chín tiếng tạo ra một âm điệu buồn buồn, lặng lặng và kéo dài, dàn ra mênh mông. Qua cầu ngả nón trông cầu như trầm lắng vào lòng người. Ở đây, không có cái sôi nổi hào hứng:"rủ nhau đi cấy đi cầy", không có cái xáo động "đố ai quét sạch lá rừng, để ta khuyên gió, gió đừng rung cây," không có cái tưng bừng, hớn hở "trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân." Ở đây, chỉ có cái buồn sâu xa, lắng đọng, dàn trải, mênh mông...
*
Tôi bắt đầu cuộc hành trình ra Vĩnh Phú. Hành trang nặng trĩu buồn lo. Cầu Long Biên cũ kỹ. Nước sông Hồng dâng cao, đỏ ngầu cuồn cuộn như giận dữ, oán hờn. Mới hôm nào đây, đồng ruộng cạn khô. Bây giờ nước ngập ruộng vườn. Ngập mái tranh. Mùa này không mấy ai đi thăm nuôi vì đường trơn, ngập nước.

Tôi không nhận ra được quãng đường vừa mới đi qua. Ga Ấm Thượng vốn tiêu điều lại càng lạnh lẽo hơn. Đò dọc, đò ngang không thấy bến. Trong tầm mắt, nước mênh mông, mênh mông... Những chiếc cầu khỉ mới bắt thô sơ bằng những thân tre nhỏ. Mỗi lần đi qua, vịn tay đi từng bước. Có lúc sợ quá, phải nhắm mắt bò, cảm giác như sắp rớt xuống vực sâu. Có những quãng đường phải đi bè, ngồi chòng chành không vững để bước sang vùng đất ẩm ướt bên kia. Bến đò Ngọc, nước sông ôm kín sỏi đá buồn.
*
"Với hình ảnh chiếc cầu, các em hãy hình dung người con gái đang đứng cạnh con sông, con ngòi, với một chiếc cầu bắc ngang. Con sông, chiếc cầu trong hoạt động tinh thần của người Việt Nam ngày xưa cũng như trong văn học đều gợi lên một cảm giác buồn rầu, xa cách, và vắng lặng."

Huy Cận đã viết:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.

Không gian ở đây trở nên bát ngát làm nền cho nội tâm, càng làm nổi bật tâm trạng buồn da diết, mênh mông, như không gian mênh mông xung quanh cô gái.
*
Tôi lầm lũi bước đi, quần xắn cao, lội nước. K1 tiếp tôi với một bộ mặt lạnh lùng: "Đã chuyển trại. Không biết chuyển trại nào." (?) Tôi vòng trở lại K2: "Không có tù nhân nào tên như trong giấy tờ xin gặp."

Lê bước tới K3: "Vừa mới thăm nuôi. Chưa được phép lần hai." Tôi không thể kiên nhẫn: "Tôi chỉ cần các ông dẫn chồng tôi ra, đứng ở xa xa cho tôi được nhìn thấy. Thế thôi!" "Chị sang K5 gặp Ban chỉ huy để xin giải quyết."

K5 ở đâu? Xung quanh tôi chỉ là những rừng và núi. Tôi mệt quá rồi! Căng thẳng tinh thần, rã rời thể xác. Một vài người dân đi qua ái ngại. Họ rụt rè nói về cái chết của chồng tôi. Mỗi người một tin. Như vậy là hy vọng còn sống rất mong manh. Mảnh giấy nhỏ nhàu nát, còn vết cuộn tròn. Nét chữ nhảy múa trong đầu óc tôi... Rồi tôi cũng tới được K5. Trình giấy tờ, hỏi lý do. Tên công an dò xét:
"Ai báo tin cho gia đình là anh Hưng chết?"
"Tôi không biết. Một người đi thăm nuôi nào đó gửi giấy tới nhà. Có lẽ cũng vì sự hạch hỏi này mà người ta không dám nói tên."
"Chị không được nghe những tin đồn thất thiệt. Đó là một trong những luận điệu xuyên tạc đường lối đúng đắn của Cách Mạng..."
"Tôi không muốn nghe anh giảng chính trị nữa. Từ bấy lâu nay, khi một người tù cải tạo chết, các anh có báo tin ngay không? Nếu các anh cứ thẳng thắn cho hay, thì làm gì có những tin đồn có hại cho đường lối chính sách của Đảng của các anh. Chính vì cách làm việc che giấu của các anh..."

Tên công an dằn giọng:
"Thôi, chị nên bớt lại lời. Bây giờ chị có muốn chúng tôi giải quyết không?"
"Giải quyết cái gì? Tôi chỉ muốn các anh cho tôi biết chồng tôi còn sống hay đã chết. Anh có biết là tôi đã đi lòng vòng hết K1, K2, rồi tới K3, và rồi ở những nơi ấy trả lời như thế nào không?"

Biết là không ngăn cản được cơn tức giận của tôi, tên công an cầm giấy phép đi vào trại.

Bên ngoài trời không có nắng, không gian bao trùm ẩm ướt. Bầu trời như chùng thấp. Thời gian nặng nề trôi. Tôi cũng không hiểu Ban chỉ huy học bàn hay hỏi ý kiến cấp trên ra sao mà mãi một tiếng đồng hồ sau, tên công an ban nãy mới trở ra. Thái độ của hắn khác trước. Hắn nhẹ nhàng mời tôi đi theo.

Bộ Chỉ huy của trại là một căn phòng không lớn nhưng tôi vẫn có cảm giác lạnh người. Ly nước trà tên công an mời uống đặt trước mặt, tôi hững hờ đẩy về phía giữa bàn.
"Tôi, Thiếu Tá Nguyễn Thùy. Xin chào chị."
Tôi không ngạc nhiên về thái độ của tên chỉ huy trại. Hắn niềm nở hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm nỗi vất vả dọc đường...
Tôi lạnh lùng:
"Xin các ông cho biết về tin tức của chồng tôi."
"Thay mặt nhà nước, thay mặt Đảng, tôi xin chia buồn cùng chị."

Hắn nói thật nhiều. Về những đức tính của chồng tôi. Về tinh thần học tập lao động. Về tai nạn chết người. Tôi như một khán giả ngồi xem một diễn viên loại dở đang vụng về diễn kịch. Cái phông làm nền cho sân khấu là lá cờ màu đỏ. Lạ thay! tôi đón nhận tin trong một tâm trạng hoàn toàn bình thản:

"Tại sao không nói cho tôi hay khi tôi tới K1, nơi mà cách đây khoảng một tháng rưỡi tôi đã đến thăm nuôi? Tại sao phải dấu diếm sự thật, khi tôi đã lặn lội ra tận nơi đây? Tại sao gặp ai ở đường tôi cũng níu lại hỏi thăm? Các ông thật vô cùng tàn nhẫn. Nhân viên của các ông còn trách tôi nghe tin đồn nhảm. Tôi rất hoang mang, nghi ngờ về cái chết của chồng tôi. Vậy sự thật chồng tôi chết ra sao?"

Nguyễn Thùy ngồi xuống chiếc ghế đối diện tôi:
"Chúng tôi có đầy đủ hồ sơ và hình ảnh người đã chết. Chị có muốn xem?"
"Các anh lập hồ sơ người chết để các anh tránh vi phạm nhân quyền. Tôi cũng không tin những hồ sơ đó."
"Hay chị có muốn gặp một trong những người bạn của anh cùng đi lao động?"

Tôi ngồi yên. Bất động. Khoảng mười phút trôi qua, trung tá nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa Phạm Ngọc Khanh được đưa lên. Ông nói y hệt Nguyễn Thùy. Có lẽ chỉ có câu nói cuối cùng ông dành cho tôi "Thương tiếc anh và chia sẻ nỗi đau cùng chị... "
Tôi nhận lại di vật của người yêu dấu. Lương thực, tôi nhờ Trung tá Khanh chia lại cho các anh em cùng phòng giam. Nguyễn Thùy chỉ cho nhận 2kg đường.
Xe Vôn-ga đưa tôi đi thăm mộ. Hưng nằm yên trên một ngọn đồi cao, quanh đó còn có khoảng năm ngôi mộ nữa. Tên công an ôm một bia đá nhỏ có khắc tên chồng tôi đặt vào trước khoảng đất không cao. Hắn loay hoay thắp nhang...

Lòng tôi giá lạnh. Tôi quay gót, xuống đồi...

Người con gái đã bước qua cầu. Qua cầu ngả nón trông cầu. Cái nón như che rợp cả không gian, cũng như choán hết nỗi buồn chia ly. Người con gái bước qua sông cũng như bước sang một đoạn khác của cuộc đời. Ngả nón, trông cầu: người con gái như thoát khỏi sự chế ngự của không gian và hoàn cảnh. Nỗi buồn da diết và lắng đọng trở thành rõ nét hơn. Không phải một nhịp cầu, không phải hai nhịp cầu, mà rất nhiều nhịp cầu. Cầu bao nhiêu nhịp, con số không thể xác định được. Các nhịp cầu liên tiếp nhau như những đợt sóng lòng sầu muộn, triền miên của người con gái.

Chỉ với những chữ rất thường dùng, rất quen thuộc, nhưng do cách sắp xếp các chữ đúng chỗ, có giá trị tạo hình và gợi cảm, câu ca dao chứa đựng bao nhiêu là tình cảm mà người con gái gửi gấm vào đó. Tất cả những chữ, những hình ảnh trên, làm nhiệm vụ chuẩn bị cho ý quan trọng nhất ở cuối câu ca dao xuất hiện và bao trùm lấy cả câu ca dao: Dạ em sầu bấy nhiêu.

Nhóm chữ kép "bao nhiêu... bấy nhiêu" ở đây cũng thật gợi cảm: "cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu" làm cho người đọc hiểu rằng nỗi buồn của cô gái trước cảnh trời cao, sông rộng, những nhịp cầu liên tiếp nhau như những đợt sóng tình cảm, là một nỗi buồn sâu lắng và không bao giờ dứt..."
Phải chăng đây là nỗi buồn riêng của một con người? Không! Đặt vào bối cảnh lịch sử của ca dao cổ, chúng ta hiểu đây là nỗi niềm tâm sự của cả một kiếp người, là tiếng kêu ai oán của nhiều thế hệ trong một xã hội không thể bảo đảm hạnh phúc cho mỗi con người..."

Tiếng chuông chuyển tiết vang lên. Tiếng chuông rung như làm Nga chợt tỉnh. Qua khung cửa, khoảng trời nhỏ màu xanh tràn ngập nắng vàng. Một vài con chim sẻ ríu rít chuyền cành. Nga xếp sách vở. Học sinh còn đang cắm cúi ghi chép...