Home Văn Học Tùy Bút Em ơi Ba Lan…

Em ơi Ba Lan… PDF Print E-mail
Tác Giả: Trần Quốc Quân   
Thứ Năm, 24 Tháng 2 Năm 2011 07:28

Quyền lực phải thuộc về nhân dân. Ý chí và nguyện vọng của nhân dân mới thực sự là sức mạnh vô địch.

Nguyên như một nhân chứng được sống trong thời khắc diễn ra các biến cố làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Nguyên không gọi sự kiện thay đổi chế độ chính trị những năm 1989-1991 là cuộc cách mạng mà Nguyên coi đây như là một cuộc chuyển đổi từ chế độ toàn trị sang chế độ tự do dân chủ đa nguyên, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Hơn 20 năm đã trôi qua nhân dân tại các nước xã hội chủ nghĩa anh em cũ đã lựa chọn cho mình cuộc sống mới bằng chính lá phiều dân chủ của họ. Quyền lực phải thuộc về nhân dân. Ý chí và nguyện vọng của nhân dân mới thực sự là sức mạnh vô địch.

 

Phần 1: Ngã rẽ mới của cuộc đời

           Nguyên biết đến Ba Lan lần đầu tiên có lẽ từ câu thơ của Tố Hữu „Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan, Đường bạch dương sương trắng nắng tràn”. Lớn thêm một chút nữa Nguyên biết thêm về Ba Lan qua những bộ phim cực đỉnh thời bấy giờ như Con Hủi, Thầy Lang, Nạn hồng thuỷ, Đại tá Volodizovski, Thế giới đàn bà…Đến khi vào trường đại học Nguyên lại được chứng kiến một số sinh viên vốn là lưu học sinh Ba Lan bị kỷ luật đuổi về nước vì nhiễm „các giá trị tư bản phương Tây”. Lạ nhỉ! Ba Lan là nước xã hội chủ nghĩa cơ mà, Nguyên không hiểu tại sao lại như vậy. Nhưng nhìn các anh chị cựu lưu học sinh Ba Lan ở trường nó trong trang phục quần loe, áo sơmi hoa cổ to với bộ tóc dài Nguyên hình dung được ít nhiều về một đất nước Ba Lan cởi mở và yêu chuộng tự do trong lòng hệ thống xã hội chủ nghĩa.

           Mới 25 tuổi Nguyên đã trở thành đảng viên. Người đời bảo trẻ thế mà vào đảng chắc vì cơ hội, Nguyên nhăn nhở cãi: chỉ đúng một nửa, 50% lí tưởng, 50% cơ hội. Nguyên là đảng viên trẻ nhất cơ quan lại cộng thêm cái mác con lão thành cách mạng. Thế là nguồn với lại kế cận chứ còn gì nữa, Nguyên tự mãn. „Giá, lương, tiền” tiến hành được ba tháng thì Nguyên cưới vợ. Đồng lương hai cử nhân kinh tế cùng làm ở cơ quan đầu não chính phủ vậy mà không nuôi nổi nhau. Vợ chồng Nguyên được cả hai đằng nội ngoại xúm vào giúp. Gom đủ tiền Nguyên  mua một máy dệt len 2 giàn. Chồng tranh thủ những chuyến đi công tác để buôn len, vợ tần tảo dệt áo đổ buôn cho các sạp ở chợ Đồng Xuân. Những tưởng đời Nguyên gắn bó với cơ quan và nghiệp len. Nhưng chỉ một câu khích tướng của vợ, đời Nguyên đã sang trang lần thứ nhất. Một đêm hai vợ chồng nằm bên nhau thao thức, vợ Nguyên hết trở mình lại thở dài mãi sau  mới thỏ thẻ: - Anh còn nhớ anh Nam khoa toán không? Anh ấy vừa thi nghiên cứu sinh đỗ đầu hội đồng kinh tế toàn quốc đấy. Nguyên chồm ngay dậy: - Thật hả, nó mà đỗ cao thế lẽ gì mình không đỗ. Biết vợ muốn mình thử sức nhưng ngại, lại nữa cái thằng Nam ấy ngày xưa tán mãi vợ Nguyên không được. Nổi cơn tự ái ngay hôm sau Nguyên lên phòng Đào tạo vụ Tổ chức cán bộ xin dự kì thi nghiên cứu sinh ngoài nước. Thế rồi Nguyên nhận được quyết định đi ôn thi đúng ngày vợ nó chuyển dạ sinh đứa con gái đầu lòng. Sau ba ngày thăm nuôi biết chắc vợ tròn con vuông, Nguyên đưa thẳng vợ con về đằng nhà ngoại. Trước là để trốn việc, sau là dồn thời gian vào việc đèn sách. Vốn là người hiếu thắng lại tham vọng nữa, Nguyên bước vào việc luyện thi với ý chí thép. Nguyên biết rằng nếu thi đỗ, tương lai gia đình bé nhỏ của nó sẽ rẽ sang một ngã mới như mọi người nói là đổi đời. Nếu thi không đỗ Nguyên sẽ không còn cái lỗ nẻ nào nữa để mà chui, hơn nữa cánh cổng quan lộ đầy triển vọng của nó sẽ khép chặt lại chẳng còn hy vọng thăng tiến.

           Sau tám tháng miệt mài bài vở Nguyên không những vượt qua được kỳ thi tuyển chọn nghiên cứu sinh ngoài nước mà còn lọt vào top five hội đồng kinh tế toàn quốc. Hồi đó kết quả thi không phải là tiêu chuẩn để chọn nước. Thực tình Nguyên chỉ biết thi chứ không mấy quan tâm mình sẽ đi đâu. Nhưng thằng bạn thi trước Nguyên một năm bảo: - Mày ngu lắm đi học chỉ để lấy kiến thức thì nước nào chả như nước nào, nhưng mày đi học đâu chỉ có mục đích cao cả là cứu nước, còn phải cứu nhà nữa chứ. Nguyên nghe thế gật gật nhưng thực tình nó chả biết chọn nước nào. Nguyên không có ai quen để hỏi thông tin về chuyện đời sống kinh tế ở mấy nước xã hội chủ nghĩa anh em. Lúc đó trong giới nghiên cứu sinh lưu truyền một câu châm ngôn „muốn giàu đi Đức, muốn kiến thức đi Nga”. Nguyên hỏi thằng bạn kia có đúng như vậy không. Thằng bạn trợn mắt mắng: - Mày đéo biết gì, câu đó xưa rồi. Thằng kia như quên hẳn việc Nguyên đi một phần để học, nó chỉ quan tâm mỗi việc tư vấn cho Nguyên chuyện kiếm tiền. Hắn thao thao lên lớp cho Nguyên là đi Đức ăn tiêu tằn tiện để dành tiền giỏi lắm chỉ mua được một cái xe máy môkích với hai ba cái xe đạp mifa chấm hết. Phải đi Ba Lan, đi Hung đánh thuốc về lại chả mua được bằng mười lần như thế. Nguyên cứ há mồm nghe thằng bạn thuyết giáo. Sau rồi Nguyên mới nhỏ nhẹ hỏi làm cách nào để được đi Ba Lan. Thằng kia lại cặn kẽ bày cho Nguyên cách tiếp cận ông cán bộ trên Bộ Đại học phụ trách mảng phân chỉ tiêu đi nước ngoài, rồi bảo nó cứ thế cứ thế ắt việc sẽ thành. Nguyên theo chỉ dẫn của thằng bạn mà làm. Số người phải chạy như Nguyên cũng không ít, sau mấy buổi bỏ công ngồi đập muỗi rình rập trước cửa nhà ông cán bộ nọ, nó cũng tiếp cận được đối tượng. Lấy can đảm trình bày nguyện vọng rồi đỏ mặt đặt mấy xấp vải len với mấy hộp sữa lên bàn Nguyên lí nhí xin phép ra về đem theo một lời hứa bâng quơ. Ngày tập trung tại hội trường đại học Kinh tế quốc dân để công bố việc phân nước, mãi đến khi nghe ông cán bộ kia đọc tên nó trong danh sách nghiên cứu sinh đi Ba Lan Nguyên mới tin đó là sự thật. Sau một năm vừa nuôi con nhỏ, vừa học ngoại ngữ tại Thanh Xuân, đúng đến ngày đến tháng Nguyên leo lên máy bay bay sang Ba Lan.

           Đặt chân đến Warszawa sau đó xuống Lodz, những hình ảnh hiện thực về chủ nghĩa xã hội phát triển khiến Nguyên thất vọng như người bước hụt. Dù trước khi đi Nguyên được giáo huấn trước rằng nước bạn đang gặp khó khăn do Công đoàn đoàn kết gây mất ổn định. Nhưng Nguyên vẫn không thể nghĩ được bức tranh Ba Lan tại sao lại khác xa với những điều nó hình dung đến thế. Sáng sớm trước các cửa hàng thịt, cá, đường… từng đoàn người lặng lẽ, kiên nhẫn xếp hàng. Các quầy hàng gần như trống trơn. Ở đâu cũng vậy. Nhiều loại nhu yếu phẩm phải mua bằng tem phiếu theo định mức.

           May được thằng bạn tư vấn, Nguyên mang theo một thùng carton TV chứa toàn kimono, áo phin thêu, vòng xương, lắc trai…Ba Lan lúc đó hàng hoá khan hiếm kinh khủng nên những thứ Nguyên mang theo đều bán được lãi gấp rưỡi, gấp đôi. Thế là ấm rồi! Nguyên bắt đầu cảm thấy tự tin hơn. Lương nghiên cứu sinh khi đó tính ra chỉ khoảng 10 USD/tháng. Vậy là ngay từ khi khởi nghiệp Nguyên đã lận lưng được số vốn bằng phụ cấp ăn học cả 5 năm trời ở Ba Lan. Do nền kinh tế kế hoạch hoá lại khép kín nên vào cuối những năm 80, đồng đô la Mỹ ở Ba Lan được thị trường định giá quá cao so với giá trị thực. Ví dụ một vé máy bay hai chiều Warszawa – Hà Nội transit qua Mockva khoảng 65 USD, giá thuê căn hộ một buồng, một bếp, một toilet giữa trung tâm Warszawa giá 20 USD/tháng, tiền ăn khá xông xênh chỉ hết 6 USD/tháng. Lạm phát lồng lên như con ngựa không kìm được dây. Chỉ số giá cả tăng đến 3 chữ số một năm.

           Chưa kịp buồn Nguyên đã sớm nhận ra đây là cơ hội, là vận may để nó đổi cuộc đời công chức khốn khó thành cây, thành chỉ óng ánh vàng. Cái đêm trước khi ra sân bay, nằm bên vợ, Nguyên lạc quan quá đà vung tay hoạch định cái kế hoạch 5 năm lần thứ nhất với lời hứa sẽ bảo vệ xong tấm bằng và đem về nước cho vợ 20 cây vàng. Vợ gõ ngón tay vào trán Nguyên thủ thỉ „liệu anh có điều chỉnh kế hoạch như chính phủ vẫn thường đề xuất với quốc hội không đấy?”.

           Phải nói rằng nghiên cứu sinh khi đi du học hầu hết đã có vợ có con. Thế nên động lực kiếm tiền của họ thôi thúc mạnh mẽ hơn nhiều so với tụi sinh viên. Sẵn có sạn trong đầu, khi phân phòng kí túc xá ở Trung tâm học tiếng Nguyên xung phong nhận phòng trên tầng 3 trong khi cả đoàn của nó ở hết dưới tầng trệt. „Cho vắng vẻ dễ bề làm ăn” Nguyên lẩm bẩm thế. Vượt lên mọi cám dỗ của sự ham vui, ham nhậu nhẹt Nguyên đã có những toan tính riêng cho mình.

           Một lần lang thang lên Warszawa vào ngày chủ nhật để tìm mối bán kimono và vòng xương Nguyên được vợ chồng đại gia số một Ba Lan thời đó rủ về nhà ăn trưa. Trong buổi gặp mặt định mệnh Nguyên được họ bày cho bài học kiếm tiền thứ hai sau cái vụ nhặt tiền từ việc bán  hàng trong nước đem theo. Chị vợ bảo Nguyên về lùng kiếm các mối cung cấp thuốc với lời hứa sẽ bao tiêu toàn bộ. Không quen một ai từ khi đặt chân sang Ba Lan bỗng dưng Nguyên được gia nhập một đường dây làm ăn lớn. Như mở cờ trong bụng, Nguyên muốn hét to „con đường sáng đây rồi” y như khi Nguyễn Ái Quốc tìm được chủ nghĩa Mác-Lênin vậy.     

                                         Xí nghiệp bào chế thuốc

 Ngày qua ngày, sau giờ lên giảng đường với tấm bản đồ trong tay, Nguyên lặng lẽ ngồi tầu điện, trong khi tụi bạn của nó vùi đầu vào những cuộc chơi liên miên. Cứ thế lầm lũi Nguyên lặn lội xuyên màn đêm tuyết phủ để đặt chân đến cả 43 hiệu thuốc trên địa bàn thành phố. Thời gian đầu Nguyên rất ngại mỗi khi bước chân vào bên trong hiệu thuốc. Nguyên lấm lét nhìn mọi người với mặc cảm tội lỗi, sau mặt cứ dầy lên rồi quen dần. Nhiều nơi họ xua đuổi Nguyên, họ dọa gọi điện báo công an khi nó chưa kịp mở mồm. Có người nhìn Nguyên run rẩy trong chiếc áo khoác bị ngấm nước với ánh mắt đầy cảm thông. Nhưng Nguyên cóc cần sự thương hại, nó đang thèm những vỉ thuốc B1, B6, Bisepton, Ampicilin…óng ánh đang bày trên quầy hàng, trên tủ kính kia cơ. Hễ ai hỏi Nguyên từ đâu tới, nó trả lời ngay là sinh viên Bắc Triều Tiên. Trong con người Nguyên lúc đó vừa xen lẫn nỗi sợ hãi vì đang làm cái việc bất chính, vừa trỗi dậy lòng tự tôn dân tộc. Trời không phụ công kẻ cần mẫn, cuối cùng Nguyên cậy được 5 mối thuốc. Mà Nguyên không thèm rón rén một hai chục vỉ cò con như Hoàng Minh Ngô đâu nhé! với nó đơn vị phải là hàng nghìn. Nguyên chẳng bao giờ chịu mất thì giờ lân la với mấy con bán hàng đỏng đảnh, nó tìm cách tiếp cận ngay cửa hàng trưởng để mỗi lần đến hẹn nó vác túi ba tầng lèn chặt các loại thuốc quí. Địa điểm giao thuốc thay đổi luôn y như hoạt động gián điệp vậy. May mà hồi đó tình hình an ninh ở Ba Lan chưa phải là mối đe doạ lớn đối với người nước ngoài.

           Có một lần đợi khi màn đêm buông xuống đặc quánh, Nguyên ngồi tầu đến tận bến cuối, nó lội tuyết thêm một quãng xa đến một bìa rừng ven đô để gặp đối tác cung cấp thuốc. Đứng chờ Nguyên ở địa điểm hẹn trước là một phụ nữ tóc vàng óng ả tuổi chưa đến bốn mươi, nhìn vẫn giòn gái lắm. Nguyên lúc đó tròn ba mươi nhưng mới bén hơi chưa lâu đã phải xa vợ. Khi người phụ nữ kia ghé sát tai Nguyên thì thầm báo số lượng, chủng loại và giá cả, nhịp tim nó đập loạn xạ. Trong hơi ấm hôi hổi của tấm thân đầy quyến rũ kia Nguyên ngửi thấy mùi thơm đàn bà. Không biết đấy là hương tự nhiên từ thân thể người phụ nữ kia truyền sang hay mùi nước hoa, chỉ biết rằng người Nguyên ngây ngất đến đờ đẫn. Quả táo Adam nuốt dở trong họng Nguyên lên xuống theo nhịp nuốt nước bọt tràn ứ trong miệng nó. Đúng lúc người  Nguyên chực đổ ụp xuống cái cơ thể rừng rực kia, bỗng nhiên hình ảnh vợ con rất đỗi nhớ thương ùa về cộng với lời nguyền công việc văng vẳng trong tai, nó rùng mình một cái rồi bừng tỉnh. Nguyên giục người phụ nữ khi đó cũng đang thở gấp gáp như muốn lả đi trong vòng tay của nó rằng phải kết thúc ngay việc giao tiền và hàng để nó còn kịp về chuyến tầu điện cuối đêm.

           Phòng của Nguyên ở kí túc xá bao giờ cũng đầy ắp thuốc. Thuốc ngập tràn các ô tủ, thuốc xếp từng chồng dưới gậm giường, thuốc bò ra cả sàn. Việc Nguyên chọn ở „vùng sâu, vùng xa” chính là để tránh những cặp mắt nhòm ngó, dị nghị của mọi người. Thế mà vẫn có chuyện. Một hôm thằng Afganistan ở phòng kế bên cùng chung toilet với phòng Nguyên bỗng la toáng lên kêu mất cái catset. Thằng bựa đó gọi hết bạn bè của nó lên tầng 3 giúp phong toả các phòng rồi báo bảo vệ đi kiểm tra. Đến phòng Nguyên tụi nó không thể vào được. Nguyên đứng đó với con dao chặt thịt lăm lăm trong tay, mắt vằn lên những tia đỏ. Nguyên thề rằng thằng nào đến gần nó sẽ chém chết. Hàng ngày Nguyên vốn nhỏ nhẹ hiền lành mà lúc này trông nó dữ tợn đến thế. Nguyên biết cái việc lộ đầy hàng cấm trong phòng nó sẽ bị trục xuất về nước, vì thế nó thề phải tử thủ đến cùng. Bà trực nhật toà nhà phải gọi điện báo cho Ban giám hiệu. Sau nửa tiếng một ông hiệu phó xuất hiện bảo Nguyên phải đồng ý cho người vào kiểm tra phòng. Lúc đó có người của trường nên Nguyên không còn cầm dao trong tay nữa. Ông hiệu phó thuyết phục thế nào Nguyên vẫn không đồng ý cho bất kì ai vào khám phòng nó. Nó nhất quyết hết sức củ chuối rằng, muốn khám phòng nó phải có lệnh hoặc phải có người sứ quán. Ông hiệu phó không làm gì được đành viết biên bản kết luận sự việc, Nguyên khăng khăng không chịu kí. Một tuần sau trường lập hội đồng kỷ luật xét cái vụ ăn cắp catset với nghi án số một là Nguyên. Họ viện dẫn lí do nếu không lấy tại sao không cho khám phòng. Nguyên lí giải: „Ở trong phòng của tôi lúc đó có nhiều kimono, tôi không muốn người khác thấy chúng tôi đi học mà phải buôn bán như thế”. Đứng trước hội đồng kỷ luật Nguyên bình tĩnh trình bày rằng nước nó nghèo như thế nào, vợ con nó ở Việt Nam bây giờ ăn đói ra sao. Vậy nên nó đi sang đây vừa để học kiến thức, vừa phải mang theo kimono bán lấy tiền đỡ đần gia đình. Nguyên hùng hồn biện minh y như khi Phiden tự bào chữa trước phiên toà Batista với câu nói bất hủ „lịch sử sẽ xoá án cho tôi”. Nguyên nói một hơi không nghỉ đến khi dừng lại, nó nhìn „hội thẩm đoàn” thấy ai nấy mắt cũng đỏ hoe. Thế là trắng án.

           Trong khi Nguyên may mắn được vẫy vùng trong biển lớn nhờ sự nâng đỡ của các soái, thì những người bạn cùng khoá với nó vẫn hàng ngày đàn đúm rượu bia. Chỉ đến dịp weekend họ mới lùng sục vào các xưởng dệt quanh thành phố Lodz vốn là trung tâm công nghiệp dệt may của Ba Lan để tìm mua áo môngtegi và khăn voan. Đợi đến lúc có điện thoại đặt hàng, họ  đóng chặt nắp vali rồi đáp tầu hoả lên Warszawa cung cấp cho các đầu nậu người Việt ở đây. Môngtegi và khăn voan không thuộc diện hàng cấm nên đương nhiên lợi nhuận không thể cao ngất như thuốc.

           Vào nửa đầu năm 1989 có một chiến dịch âm thầm diễn ra rất ngắn nhắm vào hệ thống các cửa hàng Jubiler (trang sức) trên toàn Ba Lan. Cho đến nay có rất ít người biết đến kiểu làm ăn chớp nhoáng mà kín đáo này trong quá khứ. Cách thức săn hàng từa tựa như cách dân Cộng mình mua vàng ở Liên Xô. Mặt hàng đặc biệt này không phải vàng mà là động hồ Liên Xô. Thời đó theo hiệp định kí kết giữa các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế việc xuất nhập khẩu trong khối chủ yếu dựa trên phương thức hàng đổi hàng. Chính cái sự trao đổi mang tính phi thị trường như thế nên hàng hoá trong các cửa hàng được bày bán với giá rẻ như cho. Từ thông tin nghe trộm được của bà vợ một cán bộ sứ quán, Nguyên rủ thêm thằng sinh viên làm cùng cho an toàn. Tranh thủ những ngày nghỉ, hai anh em ngồi tầu đi đến những thành phố hơn 50 nghìn dân được đánh dấu trên bản đồ để mua vét đồng hồ. Ở một vài nơi, thỉnh thoảng nó cũng đụng đầu người Việt Nam quần đảo cửa hàng Jubiler y như nó. Chạm mặt nhau ở những chốn đó mới thấy hiếm khi có sự thân thiện hiện lên trong ánh mắt các con rồng cháu tiên.

           Từ ga Nguyên ngồi taxi chạy thẳng đến những cửa hàng Jubiler có trong thành phố. Nó chẳng ngạc nhiên khi thấy cửa hàng Jubiler nào cũng đầy ắp hàng thủ công mỹ nghệ made in Việt Nam. Nguyên vờ nhặt lên mấy cái giỏ tre, bức sơn mài hay hộp khảm trai, nhưng kì thực mắt nó lại dán chặt vào mấy cái tủ kính bày đồng hồ. Nhìn thấy những chiếc đồng hồ Liên Xô hiệu Polgot, Raketa, Zuravia…mắt Nguyên sáng rực lên. Chiến lược tiếp cận của Nguyên vẫn y như cách thức nó cậy mối thuốc vậy. Nguyên sải những bước chân đầy tự tin vào ngay phòng cửa hàng trưởng. Thô bạo không kém những người đồng hương  mua vàng bên Liên Xô, Nguyên chỉ cho bà cửa hàng trưởng xem những chồng tiền xếp ngay ngắn đầy ăm ắp trong chiếc túi du lich mang theo người. Chờ cho đến khi bà ta hết ngỡ ngàng lấy lại được bình tĩnh, Nguyên vào thẳng ngay vấn đề rằng nó muốn mua hết số đồng hồ có trong cửa hàng với giá cộng thêm 20%. Nhân viên trong cửa hàng nhốn nháo ngược xuôi. Tất cả đồng hồ không kể mác gì miễn là made in CCCP được gỡ ra từ các quầy hàng, tủ kính, thậm chí cả những chiếc chưa được xuất kho. Mỗi lần như thế Nguyên gom được hàng trăm chiếc đủ loại. Nó chia ra một phần bán ngay lấy lãi, một phần gửi mấy ông có hộ chiếu công vụ về nước cho vợ. Công việc kiếm tiền này vừa nhẹ nhàng, vừa kín đáo lại lịch sự nữa nên hai thằng hăng hái ngồi tầu dễ đến nửa năm cho đến khi không thể đào đâu ra đồng hồ Liên Xô trên đất này nữa.

           Sau một năm tần tảo, vừa học tiếng vừa đánh quả Nguyên tích luỹ cho mình một số vốn kha khá. Quan trọng hơn Nguyên đã thiết lập được cho mình nhiều mối quan hệ cần thiết cho công việc kinh doanh. Khi phải lên Warszawa làm bằng, Nguyên truyền lại cho mấy thằng đàn em mới sang học tiếng kiểu làm ăn nhặt nhạnh vừa mất thời gian vừa mất sức. Nguyên bắt tay vào việc triển khai các  kế hoạch làm ăn đầy tham vọng trong tương lai.

 Từ một trí thức trẻ, một đảng viên đầy nhiệt huyết với bao khát vọng được cống hiến, được phấn đấu cho lí tưởng „cao đẹp” Nguyên bắt đầu dấn thân vào một ngã rẽ mới của cuộc đời như một sự an bài của số phận.

Phần 2: Một cuộc chuyển đổi

            Trong lúc nhân dân Ba Lan và bạn bè phải vật lộn trong nỗi cơ cực khốn khó thì Nguyên lại được tận hưởng bữa ăn hàng ngày trong sự sung túc mà trước đấy một năm nó không bao giờ dám nghĩ đến. Ngay từ tháng đầu tiên Nguyên cho luôn mấy thằng em sinh viên tất cả số tem phiếu thịt, cá và nhu yếu phẩm của nó. Nguyên lấy đâu ra thời gian để vừa học, vừa đánh quả lại kiên nhẫn xếp hàng đua với các cụ về hưu. Nguyên chỉ mua các loại thực phẩm ngon nhất ở chợ nông trường giữa trung tâm thành phố Lodz. Bữa trưa đương nhiên Nguyên phải ăn ở kí túc xá trường dạy tiếng. Nhưng trong bữa tối Nguyên tự thưởng cho mình bất kì món gì mà nó muốn cùng với những chai bia. Mục kích sở thị món súp tứ đời chỉ có khoai tây nấu lẫn bắp cải mà bọn sinh viên Bắc Triều Tiên che che đậy đậy nấu trong bếp, Nguyên thấy mình còn may được sống kiếp người. Không muốn tranh nhau xem cái tivi tập thể dưới phòng văn hoá Nguyên mua lại chiếc tivi Neptun nguyên hộp với giá 50 USD từ ông bạn trên Warszawa. Kết thúc năm học tiếng, một thằng nghiên cứu sinh Bắc Triều Tiên phải năn nỉ mãi Nguyên mới bán lại cho nó chính chiếc tivi ấy với giá 70 USD. Lúc đầu Nguyên không hiểu tại sao mấy ông nghiên cứu sinh trường WAT (quân đội) lại có nhiều tivi Neptun đen trắng đến thế. Hồi đó mua được tivi là cả vấn đề vì hiếm khi thấy bày bán trong các cửa hàng mậu dịch. Mãi sau Nguyên mới biết họ mua tivi không phải vì mục đích kiếm lời, vì lãi không bao nhiêu, mà họ bỏ công móc tivi tận nơi phân phối gốc chỉ với mục đích lấy cái thùng carton để đóng thuốc gửi tầu thuỷ chuyển về Việt Nam.

           Trước khi rời Trung tâm học tiếng, Nguyên vẫn kịp tham gia chiến dịch chuyển tem cốc về Việt Nam. Mặt hàng này ở trong nước lúc đó bị liệt vào dạng văn hoá phẩm đồi truỵ. Những chiếc tem folie in hình cô gái có thể tự dán lên cốc uống bia. Khi rót bia lạnh, hơi nước tụ trên mặt tem làm tuột hết quần áo, lộ ra cơ thể con gái nõn nà. Cả một đường dây hoàn chỉnh được thiết lập. Mỗi vali đóng đầy tem cốc nặng tới trên 50kg. Ở cửa đi sân bay Okecie hễ thấy ai kéo lết vali trên sàn đích thị trong đó chứa tem cốc. Mấy thằng đại diện hàng không làm tiền chuyện quá cân, mỗi vali chúng thu 150 USD. Một lần vợ Nguyên gọi điện thoại sang hỏi „tại sao mấy chục cái tem bị tróc hình, mà toàn tróc chỗ…ấy". Lúc đó Nguyên mới nhớ ra có lần mấy ông nghiên cứu sinh lân la sang phòng nó ngỏ ý muốn được xem thứ hàng lạ lẫm ấy. Nguyên xoa nước lên tem trình diễn. Vừa khi Nguyên chạy xuống phòng thường trực nghe điện thoại, mấy ông bạn mỗi ông một bộ sáu chiếc, tranh thủ…liếm để thưởng ngoạn. Nước không sao chứ nước bọt có dịch tiêu hoá làm nhạt hồ in. Hệ quả của vụ mấy ông bạn lén lút „tự sướng” làm Nguyên thiệt hại đến vài „vé”.

           Chia tay thành phố Lodz Nguyên lên Warszawa ngay từ khi kết thúc khóa học, trong khi bạn bè của nó vẫn ở lại đến hết hè. Chưa vào năm học mới nên trường đại học Tổng hợp Warszawa không thể làm thủ tục cho nó vào kí túc xá. Nguyên chẳng bận tâm về điều đó bởi nó đang sở hữu số tiền có thể mua được cả căn hộ ở trung tâm Warszawa. Nhưng chẳng dại gì làm cái việc điên rồ đó, để tiền còn làm ăn chứ. Nguyên nghĩ thế nên nó mò vào Akademik trên phố Zamenhofa cũng của trường đại học Tổng hợp thuê lại một phòng. Trường này tranh thủ sinh viên về nhà kì nghỉ hè, cho thuê lại phòng để kiếm thêm thu nhập.

            Nguyên được bố trí một phòng trên tầng hai của tòa nhà năm tầng. Nó rất ngạc nhiên khi thấy cả tầng toàn người Việt Nam già có, trẻ có, lại cả trẻ con nữa. Y như một ốp lao động bên Nga. Hỏi kĩ Nguyên mới biết đó là gia đình các chuyên gia Việt Nam làm việc tại Châu Phi. Ba Lan khi đó tính ra đô cái gì cũng rẻ, kể cả vé máy bay về Việt Nam. Dân mình vốn nhạy bén nên thông tin cho nhau về miền đất hứa vừa dễ kiếm tiền vừa giá sinh hoạt rẻ. Thế là đám chuyên gia cứ vào dịp hè rủ nhau ùa sang Ba Lan quá cảnh và tranh thủ đánh quả. Lợi cả đôi bề. Nguyên lại gặp may khi vô tình rơi vào hũ ấy. Nó lân la làm quen với từng người, rồi cung cấp các dịch vụ cần thiết cho họ. Nguyên vừa biết tiếng vừa nhiều mối quan hệ nên đương nhiên các ổ dịch vụ khác bị gạt ra rìa. Mấy ông nghiên cứu sinh chuyên „làm thịt” chuyên gia tức vằn mắt lên nhưng đếch làm gì được. Nguyên vừa xuất thân Phố Nhà Binh lại từng trải qua ba năm nghĩa vụ, nó không đánh ai nhưng cóc sợ thằng nào.

           Số Nguyên thế nào mà ngay từ lúc trở thành đàn ông năm 14 tuổi, nó thường bị bọn con gái cùng lứa xoa đầu vặt mũi vặt tai coi như trẻ con, nhưng không hiểu sao nó lại hay được các chị già thích...Nguyên như lọt vào xóm „không chồng”. Mấy bố chuyên gia chắc đuội, thế nên các bà vợ nhìn Nguyên với ánh mắt lúng liếng như muốn...nuốt tươi nó. Trong số đó có một chị tên Hoa hơn Nguyên chừng bảy, tám tuổi. Chồng Hoa không già nhưng bị cái bụng phệ. Mỗi lần thấy Nguyên đi đâu về là Hoa chạy sang phòng nó mon men hỏi đủ chuyện linh tinh. Có lần Nguyên vừa vào phòng Hoa bám ngay sau lưng, theo vào chốt cửa phòng lại. Nguyên lúng túng, Hoa nói cần 50 vỉ ampicilin. Nguyên bảo tối sẽ qua tận phòng đưa nhưng Hoa không chịu về ngay, cứ nấn ná mãi. Vừa ngồi tầu mấy trăm cây số trở về Vác nên Nguyên mệt mỏi. Không giữ ý tới sự có mặt của Hoa, nó ngã vật ra giường ngủ vùi. Trong cơn mê hình như Nguyên thấy Hoa dắt tay nó bồng bềnh bay đến chốn thần tiên.

           Tối Nguyên sang phòng đưa thuốc cho Hoa. Không thấy anh bụng phệ đâu, nó chỉ thấy Hoa đắp tấm chăn mỏng nằm trên giường. Nguyên để thuốc lên bàn định quay gót thì nghe tiếng Hoa gọi „lại đây, đưa mình xem nào”. Nguyên tiến lại đầu giường bất thần Hoa hất tấm chăn mỏng, kéo mạnh tay nó. Trên tấm thân căng tràn sức sống của gái một con không có lấy một mảnh vải dù chỉ bằng bàn tay. Người Nguyên như lên con sốt, vật vã trong cơn thèm khát... Xa vợ hơn một năm, Nguyên thật khó lòng cưỡng lại được sức lôi cuốn trần trụi đầy bản năng của cái cơ thể rừng rực hoang dại kia. Nguyên đã định tặc lưỡi nhảy ùm xuống dòng sông hoan lạc để bơi, bơi mãi đến bến bờ vô định. Đúng lúc đó có mấy tiếng gõ nhè nhẹ lên cửa phòng. Nguyên luống cuống lao nhanh ra phía cửa. Nhưng Hoa vẫn lõa thể lồ lộ đứng giang hai tay ngay trước mặt nó ngăn lại. Nguyên há mồm kinh ngạc bởi thái độ điềm tĩnh đến lạ lùng của Hoa. Trên gương mặt Hoa không hề biểu lộ chút nào sự sợ hãi. Lúc đó Hoa với tay lấy chiếc kimono, khoác lên người rồi nói với ra cửa „chờ chút”. Nguyên hình dung một khuôn mặt đằng đằng sát khí cắm trên thân hình đồ sộ, ầm ầm lao vào phòng như một cỗ xe tăng. Nó thủ thế đề phòng một trận chiến ác liệt. Nhưng chẳng hề có chuyện gì xảy ra như nó vừa nghĩ. Anh bụng phệ ló đầu vào phòng đã nhoẻn ngay nụ cười thân thiện với nó, lại gật gật ra chiều hiếu khách. „Anh chồng này chắc chưa bao giờ làm được cái điều khiến vợ sợ hãi” nó nghĩ thế. Nguyên nhớ đến câu nói của người đời „phàm thằng chồng nào không làm chủ được ban đêm cũng không làm chủ nổi ban ngày”.

           Một ngày nọ, khi Nguyên đang lom khom mở khóa phòng, nó nhìn thấy một thanh niên người Việt Nam khoác vai một cô gái Ba Lan khá xinh xắn đi vào phòng bên cạnh.Trong lúc mải miết dán chặt ánh mắt thèm thuồng lên đôi vòng ba tròn vo đang nẩy tanh tách của cô gái, Nguyên nghe thằng kia liến thoắng tiếng Ba Lan. Chắc hắn là sinh viên. Hơn năm trời chay tịnh, Nguyên cũng khát khao lắm chứ, người chứ có phải gỗ đá đâu. Đêm ấy Nguyên cố tình mở toang cửa sổ để đón nhận những âm thanh đầy khêu gợi từ phòng bên cạnh vọng sang. Chẳng phải chờ lâu, chỉ độ nửa tiếng sau tiếng huỳnh huỵch dội trên sàn, rồi tiếng giường lắc, tiếng rên, tiếng thở gấp gáp... Người Nguyên rạo rực lên xuống theo cường độ âm thanh từ phía ấy. Nguyên nhận biết khoảng nghỉ giữa mỗi hiệp đấu qua sự tĩnh lặng. Chỉ có tiếng bật nút chai, tiếng chạm li, tiếng thì thầm, xen lẫn tiếng cười rinh rích. Sau lần thượng đài thứ hai của mặt trận bên kia, Nguyên bắt đầu cảm thấy chán, mặt mũi nó phờ phạc, hai mắt đỏ ngầu. Nguyên muốn đi ngủ nhưng nào có ngủ được. Trong cơn tức giận Nguyên chồm dậy lao về phía bức tường, hai tay đấm thình thịch. Thinh không chỉ lắng dịu ít phút rồi lại sôi lên sùng sục. Nguyên chạy ra cửa sổ gào lên „tiên sư mấy con ngựa hoang, vừa phi vừa hí thế kia, bố mày ngủ làm sao được…”. Như trêu tức Nguyên, những âm thanh nó vừa ném ra lại dội ngay trở lại nơi nó đứng như chiếc boomerang. Nguyên chong mắt nằm đếm. Gần sáng miệng nó lẩm bẩm „Mẹ kiếp! cái thằng ngực mỏng như gián ấy lấy đâu ra sinh lực mà làm được tới bốn chiếc lận”.

            Mấy hôm sau Nguyên xách chiếc vali chuyển đến căn hộ trên phố Bagno mà nó vừa thuê được. Không thể gần trung tâm hơn được nữa bởi chỗ này đúng là trung tâm của Warszawa. Chính từ căn nhà này Nguyên bắt đầu bước chân vào vận hội làm ăn mới với qui mô ngày càng lớn. Lúc này Ba Lan như bị hút xuống đến tận cùng đáy vực của vòng xoáy khủng hoảng. Xã hội chia rẽ, đình công xảy ra khắp mọi nơi, tỉ lệ thất nghiệp cao, lạm phát phi mã với tốc đô chóng mặt, cửa hàng trống trơn...Mặc dù có nhiều tiền nhưng trong hoàn cảnh bi đát đó Nguyên cũng cảm thấy hoang mang. Nó không thể biết tình hình này sẽ kéo dài bao lâu và trôi về đâu? Suốt nửa năm trời Nguyên không tìm đâu ra một hạt gạo, một cọng mì. Nó phải tập thích nghi bằng cách làm quen với những món ăn đơn giản nhất làm từ bánh mì và khoai tây. Đến rau cũng trở nên khan hiếm, miệng nó loét vì nhiệt.

            Thực trạng Ba Lan như đang đẩy hai khối nhiên liệu uranium đến tới hạn của một vụ nổ hạt nhân. Trước sức ép mạnh mẽ của dư luận, của các trào lưu xã hội, chính quyền Cộng hoà Nhân dân Ba Lan dưới sự lãnh đạo của Đảng Công nhân Thống nhất buộc phải chấp nhận "Hội nghị bàn tròn" với Công Đoàn Đoàn Kết và đồng ý tổ chức bầu cử dân chủ vào quốc hội và thượng viện. Ngày 17 tháng 4 năm 1989 tòa án thành phố Warszawa phải cấp lại đăng ký pháp lý cho Công Đoàn Đoàn Kết và chấp nhận cho tổ chức này hoạt động công khai và hợp pháp sau gần bẩy  năm bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Ngày 04 tháng 6 năm 1989 trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên, Công Đoàn Đoàn Kết giành thắng lợi lớn. Công Đoàn Đoàn Kết cùng các lực lượng đối lập là Đảng Nông Dân Thống Nhất và Đảng Dân chủ đứng ra lập chính phủ liên hiệp. Tháng 12 năm 1990 Lech Wałęsa lãnh tụ Công đoàn Đoàn kết trở thành tổng thống. Chính quyền mới tiến hành chuyển đổi nền kinh tế  từ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường tự do. Ba Lan bắt đầu ra khỏi khủng hoảng, vượt qua những khó khăn về kinh tế và dần dần trở thành một quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển cao. Nguyên vô tình được làm nhân chứng sống chứng kiến sự hồi sinh và phát triển đến chóng mặt của xã hội Ba Lan. Từ chỗ các cửa hàng trống trơn không có gì để mua, chỉ sau nửa năm hàng hoá đủ loại tràn ngập mọi nơi. Người dân hân hoan đón chào cuộc sống mới.

        Phong trào Công đoàn Đoàn kết Ba Lan

           Sự kiện lực lượng tự do dân chủ Ba Lan lên nắm chính quyền một cách hoà bình làm rung chuyển toàn bộ khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Cuộc chuyển đổi chế độ chính trị như một con sóng lớn lan nhanh qua từng nước, từ Ba Lan sang Tiệp Khắc, đến Hungari, qua Đông Đức tới Bungari, Albani. Nhưng khó khăn nhất, đẫm màu nhất là cuộc nổi dậy của nhân dân Rumani chống độc tài Ceausescu. 5000 người bị tàn sát tại thành phố Timisoara và ngay sau đó là cuộc hành quyết không qua xét xử hai vợ chồng nhà độc tài. Quãng thời gian này Nguyên như được sống trong khí thế hào hùng của chiến dịch Đại thắng Mùa xuân năm 1975. Ngày xưa Nguyên sục sôi dõi theo các mũi tiến công của đoàn quân cách mạng giải phóng từng tỉnh, từng thành  phố cho đến khi chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, thì lạ thay đến lúc này Nguyên lại háo hức đón chào biến cố thay đổi dân chủ diễn ra lần lượt qua từng nước, từng nước Đông Âu.

           Mới chỉ hơn một năm trước Nguyên còn là một đảng viên thấm đẫm tinh thần quốc tế vô sản, cuồng nhiệt cổ vũ cho sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Nhưng từ khi được chứng kiến thực trạng chính trị, kinh tế, xã hội Ba Lan cũng như một số nước Đông Âu khác, thế giới quan trong con người Nguyên gần như thay đổi hoàn toàn. Nguyên không còn cực đoan khi nhìn nhận thế giới vận động và phát triển trên nền tảng tư tưởng như trước nữa. Đây thực sự là một bước chuyển biến sâu sắc trong Nguyên về nhận thức, về quan điểm, về tư tưởng. Nguyên sinh ra trong một gia đình „cách mạng kiểu mẫu” có bố hoạt động „Việt minh bí mật” từ thời tiền khởi nghĩa. Cả nhà Nguyên không tính dâu rể có tới chín đảng viên (trong đó có Nguyên) đủ để thành lập một chi bộ mạnh. Ngay từ bé, lí tưởng cộng sản từ những người thân trong gia đình thấm dần vào Nguyên. Cậu bé Nguyên từng rơi nước mắt khi nghe tin Tổng thống Agiende ở Chi Lê hi sinh trong cuộc đảo chính do Pinoche cầm đầu. Chàng trai Nguyên từng coi Phiden Castro, Cheguevara, Nguyễn Văn Trỗi… như những thần tượng của đời mình. Thanh niên Nguyên từng say sưa đọc những tác phẩm gối đầu giường như Ruồi Trâu, Thép đã tôi thế đấy, Bất Khuất…Sinh viên Nguyên từng vùi đầu nghiên cứu Tư Bản Luận của Các Mác, Tuyển Tập Lê Nin, Chủ nghĩa xã hội khoa học…Nguyên từng tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa cộng sản, từng tin tưởng vào thế giới đại đồng mà ở đó „Của cải nhiều như không khí/ Cảnh vật như thần tiên/ Con người như thánh hiền”. Vậy mà những điều Nguyên tận mắt được chứng kiến lại không đúng như thế.

         Hội nghị bàn tròn đánh dấu sự sụp đổ của hệ thống XHCN Đông Âu

           Năm 1991 Nguyên lần đầu đặt chân lên đất nước Liên Xô vĩ đại thành trì của chủ nghĩa xã hội, nó nhìn thấy „thành quả” của công cuộc hoàn thành xây dựng „chủ nghĩa xã hội phát triển” đang tiến lên xây dựng „chủ nghĩa cộng sản”. Nguyên đã có dịp đặt chân đến một số nông trang tập thể  với những tên gọi rất kêu như „Con đường sáng”, hay „Con đường tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản”... Trên đất nước Ucraina, khi đi qua những nơi từng ghi dấu ấn của Paven Coocsaghin, Nguyên thấy rất nhiều mảnh đời lam lũ hiện lên trên từng gương mặt nhầu nhĩ khắc khổ của những người nông dân. Các căn nhà gỗ xiêu vẹo, leo lét ánh đèn ven đường đập vào mắt Nguyên chẳng khác những gì Ostrovski từng ghi lại trong tác phẩm „Thép đã tôi thế đấy” từ hơn 70 năm trước. Nguyên hoang mang chới với, Nguyên mất niềm tin. Đâu là lối đi định hướng cho cuộc đời một đảng viên cộng sản đầy nhiệt huyết như Nguyên?

           Tháng Tám mùa thu năm 1991, Nguyên trở về Việt Nam thăm song thân. Cả nhà quây quần mừng đón cậu con trai út lần đầu trở về sau ba năm biền biệt. Bên mâm cơm rất mực đầm ấm mọi người bỗng im lặng lắng nghe bản tin thời sự mới nhận được phát trên ti vi về cuộc đảo chính ngày 19/8 ở Liên Xô loại Gorbachov khỏi mọi quyền lực về mặt đảng cũng như chính quyền. Bản tin vừa dứt, những tiếng phân tích, tranh luận xung quanh biến cố bất ngờ này rộ lên. Bầu không khí trong căn phòng nhà Nguyên mỗi lúc một nóng và ngày càng sôi động. Hai chiến tuyến dần được thiết lập, song cục diện như đã được dự báo trước. Phái Bolshevik ủng hộ phe đảo chính gồm hai vị phụ huynh và tất cả các anh chị ruột cùng dâu rể, phái melshevik ủng hộ Gorbachov và Yeltsin chỉ đơn độc một mình Nguyên. Hai bên khẩu chiến không khoan nhượng. Nguyên dẫu thân cô thế cô vẫn đưa ra những lập luận sắc bén để bảo vệ quan điểm của mình. Xem ra xung đột chính trị là nguyên nhân dễ gây chia rẽ không những  xã hội mà cả mỗi gia đình bé nhỏ. Ba Nguyên không làm sao thuyết phục được cậu con út, tức quá ông chỉ vào mặt Nguyên quát „Mày là đảng viên mà tư tưởng tha hoá đến thế à. Nếu mày vẫn giữ lập trường sai trái như vậy thì làm đơn ra khỏi đảng ngay lập tức. Đảng không cần những người như mày. Cút ngay!”. Đạo làm con, làm em không cho phép Nguyên to tiếng cãi các bậc bề trên đến cùng. Trước nay Nguyên luôn là người con hiếu thảo nhưng lòng Nguyên đã định, không thể thay đổi được nữa. Nguyên ngồi đấy kìm nén sự ấm ức trào lên từng cơn trong cổ. Nguyên nhọc nhằn nuốt từng miếng cơm chan cùng nước mắt.

           Sau khi quay trở lại Ba Lan Nguyên đã „tự ý” bỏ sinh hoạt đảng. Nguyên „lặng lẽ” rời bỏ đội ngũ „tiên phong” từng một thời được nó coi là lẽ sống suốt đời. Song thật lạ! cho đến tận bây giờ sau mười mấy năm không đóng đảng phí, tên của Nguyên vẫn chưa bị gạch khỏi danh sách đảng viên. Không lẽ đảng vẫn không muốn ly hôn với nó, không lẽ đảng vẫn còn hi vọng vào một cuộc hoà giải. Nhưng Nguyên đã dứt khoát lựa chọn cho mình cách yêu quê hương đất nước như cha ông nó từng yêu từ hàng nghìn năm nay. Vốn là người rất mực chung tình, dù không còn  đồng hành trên cùng một con đường, Nguyên không chọn đại bác, không chọn súng lục hay thậm chí chỉ là một viên đá để ném vào quá khứ. Nguyên nguyện suốt đời không bao giờ „đái” vào cái „bình sữa” đã từng một thời nuôi dưỡng nó thành người.