Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Bảo Vệ Lãnh Thổ Tiểu Ðoàn Trâu Ðiên và người phóng viên chiến trường

Tiểu Ðoàn Trâu Ðiên và người phóng viên chiến trường PDF Print E-mail
Tác Giả: Philato   
Thứ Năm, 22 Tháng 7 Năm 2010 04:59

Hiện nay cộng đồng người Việt tỵ nạn CS sống trên đất Mỹ thường có một sinh hoạt rất ý nghĩa và đượm tình đồng hương,

 đó là những buổi họp mặt (đại hội) hằng năm của những người cùng địa phương, cùng học đường, cùng quân trường và nhất là của các cựu quân nhân cùng đơn vị.

 
Thông thường thì đại hội được tổ chức vào những dịp có nhiều ngày nghỉ lễ, tùy theo khả năng và nhu cầu mà tổ chức mỗi năm hoặc hai năm một lần. Binh chủng TQLCVN chúng tôi thì tổ chức mỗi năm một lần, luân phiên ở các tiểu bang khác nhau. Năm 2008 chúng tôi tổ chức tại Little Saigon vào dịp July 4, anh em Mũ Xanh các nơi về tham dự đến gần 400 người, trong đó có khá đông anh em thuộc Tiểu Ðoàn 2/TQLC mang danh hiệu Trâu Ðiên.

Trong khi các cựu Trâu Ðiên đang vui vẻ ôn lại chuyện đồng đội cũ chiến trường xưa thì vị cựu Tiểu Ðoàn Trưởng ra hiệu yên lặng rồi ông mở tờ báo KBC/HN ra cho mọi người xem bài viết của tác giả Ngọc Anh với tựa đề “Người Yêu Trâu Ðiên”. Bên lề bài viết là tấm hình của một phụ nữ rất duyên dáng với áo dài trắng, tóc xõa bờ vai nhưng đôi mắt thì quá buồn. Bầu không khí buổi họp mặt bỗng sôi động hẳn lên, có nhiều tiếng huýt sáo y như ngày nào năm xưa khi em “gái” hậu phương đến thăm anh “trai” ngoài tiền đồn biên giới.

Ngọc Anh với “Người Yêu Trâu Ðiên”

Chưa biết nội dung nói gì nhưng ai cũng đòi người anh cả đơn vị cho cầm tờ báo để ngắm người đẹp, người đẹp giữa chốn ba quân, khiến nét mặt anh cả tươi vui với giọng nói trẻ trung như ngày xưa ra lệnh trước hàng quân:

- “Ai là thủ phạm, ai là ‘Người Yêu Trâu Ðiên’ thì bước ra khỏi hàng”.

Thật bất ngờ, mấy chục “ông già” trong quân phục rằn ri sóng biển cùng nhất loạt đứng lên đưa cao tay, miệng hô lớn:

- “Em, chính em, chính là em”.

- “Thưa đại bàng, không phải thằng đó, em mới chính là thủ phạm”.

Nếu tác giả Ngọc Anh, dù là nam hay nữ, mà nhìn thấy cảnh này chắc chắn sẽ cảm động lắm, chỉ với cái tựa bài viết thôi mà đã khiến những cựu quân nhân già cỗi nơi hải ngoại bỗng trở lại thành những người lính trẻ trung oai hùng năm xưa, vui thật là vui.

Trước tình thế khó xử, biết trao “người đẹp” cho ai bây giờ nên anh cả liền bắt bí:

- “Trâu Ðiên nào đã tham dự trận đánh vùng Phú Lâm hồi Tết Mậu Thân đưa tay lên”.

Tất cả các cánh tay lại đồng loạt đưa thẳng lên như năm xưa tuyên thệ ngày mãn khóa tại vũ đình trường, trong đó có nhiều anh khi trận Mậu Thân xẩy ra thì còn là học sinh. Anh cả mỉm cười vì ai cũng muốn “tự giác”... nên ông đành trao tờ KBC/HN cho một người rồi ra lệnh:

- “Trận Mậu Thân, cậu là một trong hai Ðại Ðội Trưởng chịu trách nhiệm giải tỏa khu vực mũi tàu Phú Lâm, hãy cầm tài liệu này về điều tra xem ai là người bị tác giả N.A khiếu nại”.

Mọi người cùng cười, chỉ một tựa bài viết mà làm không khí sinh động hẳn lên, mọi Trâu Ðiên cùng nâng ly chúc mừng sức khỏe giống như nâng ly mừng chiến thắng Phụng Dư, Ðầm Giơi, Cổ Thành, v.v. Tôi đưa tay nhận tờ KBC/HN như nhận tấm bằng tưởng lục.

Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần bài viết “Người Yêu Trâu Ðiên”, tất cả những gì tác giả N.A. ghi lại đều có liên quan đến cuộc hành quân 40 năm về trước của đơn vị tôi. Tôi tự hỏi không lẽ lại có sự trùng hợp lạ lùng đến thế sao? Ðây phải là một câu chuyện có thực.

Nội dung câu chuyện nói về thân phụ của tác giả là một phóng viên chiến trường, ông đi theo Tiểu Ðoàn Trâu Ðiên để chụp hình quay phim những trận đánh trong thành phố Saigon Tết Mậu Thân. Trong những hình ông chụp có một tấm hình đẹp của người lính Trâu Ðiên và ông đã tặng tấm hình đó cho con gái khi cô mới chỉ là một nữ sinh lớp Ðệ Lục trường Gia Long...

Thân phụ N.A. đã kết thân với người lính ấy và mỗi khi họ trò chuyện bên nhau thì cô bé chăm chú nhìn hình con trâu trên vai áo trận rằn ri. Rồi người lính ấy di chuyển đi nơi khác khiến cô bé bâng khuâng và khi VC tấn công đợt 2 thì thêm một đại họa bất ngờ ập đến với tuổi thơ, thân phụ tác giả đã bị VC hạ sát trong lúc đang thi hành công vụ!

Xin phép tác giả cho tôi trích một vài đoạn trong bài viết “Người Yêu Trâu Ðiên” để đem so sánh với những gì đã xẩy ra 40 năm về trước ở đơn vị tôi khi tham dự trận Mậu Thân: (trích)

- Anh Trâu Ðiên yêu dấu.

Khi viết năm chữ này, trái tim em đập những nhịp bất thường, ngón tay cầm viết cũng run rẩy. Trước mặt em là tấm hình đen trắng...

Anh Trâu Ðiên biết mà, tấm hình này chính Ba em chụp cho anh... Tự nhiên Ba cầm tấm hình ngắm nghía rồi đưa cho em, nói:

- “Tấm hình này đẹp quá, muốn giữ không con?”

Tấm hình Ba khen đẹp quá, em đã ép trong cuốn nhật ký nhỏ, giấu kín giữ cho riêng em mà thôi...

Tháng Năm năm Mậu Thân, VC lại tấn công thủ đô lần thứ 2.

Buổi sáng hãi hùng đó, không có anh Trâu Ðiên, Ba em đã đi luôn...

Không, Ba có trở về bằng thân xác còn nóng hổi, máu còn chẩy ra linh láng, ướt hết quần áo em! Hai chị em yếu đuối đã vác xác Ba về...

Lá thư này em viết nhưng không bao giờ gửi, vì em đâu biết anh Trâu Ðiên ở nơi nào trên mảnh đất đầy thống khổ... Em viết lá thư này như một nhu cầu yêu thương dành cho anh Trâu Ðiên, ngươi bạn trẻ của Ba, hình ảnh Ba và anh Trâu Ðiên luôn gắn liền nhau trong lòng em. Em giữ mãi lá thư không gửi trong cuốn nhật ký...”

Với lòng mong mỏi anh Trâu Ðiên vẫn còn sống sót đâu đó biết rằng trên mặt đất này vẫn còn có một người nhớ tới anh Trâu Ðiên ngày xưa...

Thực sự tôi chưa biết rõ tác giả Ngọc Anh là nam hay nữ, nhưng tấm hình kèm theo bài viết thì là hình của “cô” Phượng Tím, người cùng với “anh” Dương Thượng Trúc phụ trách mục “Thư Hậu Phương, Thư Tiền Tuyến” trên báo KBC/HN. Tiết mục này tương tự như hộp thư “Dạ Lan” của đơn vị tôi ngày xưa, chuyên gửi những lá thư tình của em gái hậu phương cho anh lính tiền tuyến khiến nhiều anh tưởng thật, mơ một ngày về phép đến rủ em Dạ Lan dạo phố. Nhưng thực sự thì cô “Dạ Lan” cũng chỉ là người lính chiến có súng, cầm súng như các anh mà thôi.

Nhân dịp đọc bài viết “Người Yêu Trâu Ðiên”, tôi xin thuật lại một vài chi tiết 40 năm về trước để giúp tác giả biết thêm về lòng yêu nghề mà không ngại gian lao nguy hiểm của người phóng viên chiến trường. Nếu đích thực ông là thân phụ của tác giả thì xin cho tôi gửi lời chia buồn đến gia đình người quá cố, một phóng viên mà tôi quý mến...

* * *

Tết Mậu Thân 1968, TÐ.2/ TQLC đang hành quân vùng Cai Lậy, Giáo Ðức, Ðịnh Tường thì được trực thăng bốc về Saigon và đổ quân xuống ngay trong sân bộ Tổng Tham Mưu, sau khi thánh toán xong tụi VC ở trường Sinh Ngữ, trung tâm Ấn Loát, cổng xe lửa số 6 thì Tiểu Ðoàn Trâu Ðiên chia ra từng Ðại Ðội đi đánh các nơi khác, sau đó thì Ðại Ðội 1 của tôi và Ðại Ðội 4 của Ðại Úy Vũ Dzoan được lệnh giải tỏa lực lượng địch đang chiếm khu cư xá Phú Lâm.

Chúng tôi lục soát và chiếm những mục tiêu đang có VC cố thủ trên những nhà lầu dọc theo hai con đường Hậu Giang và Lục Tỉnh để tiến về mũi tàu Phú Lâm và đài phát tuyến. Vì chiến đấu trong thành phố nên chúng tôi không được phép sử dụng pháo binh và máy bay, do đó chúng tôi đã gặp nhiều khó khăn bởi vì địch đã nằm sẵn trên các cao ốc, nhìn rõ mục tiêu, nhắm súng vào chúng tôi. Nhưng đã là lính thì phải chấp nhận hy sinh để giảm thiểu thiệt hại sinh mạng và tài sản của đồng bào.

Khi đại đội tôi tiến đến ngã tư đường Hậu Giang và Phú Ðịnh thì đụng nặng, địch khá đông đang cố thủ trong hãng pin Con Ó, cách chúng tôi một bãi đất trống và hỏa lực rất mạnh. Ðã mấy tiếng đồng hồ rồi mà quân ta chưa tiến thêm được bước nào mà bị thương và tử trận ngày càng tăng cao trong khi thượng cấp thì ra lệnh phải tiến “bằng mọi giá”!

Chúng tôi phải xin tăng cường xe thiết giáp để TQLC tùng thiết* (*có nghĩa là bộ binh và thiết giáp che chở yểm trợ cho nhau cùng tiến), cấp trên đã biệt phái xuống cho tôi một thiết giáp M41. Chỉ một chiếc thôi thì chưa đủ, nhưng có còn hơn không nên tôi cho lệnh Trung Ðội đi đầu của Thiếu Úy Nguyễn Văn Quang chuẩn bị “tùng thiết” để vượt qua khoảng trống, chiếm mấy cao ốc trước mặt, thiết lập đầu cầu. Tiến như thế rất nguy hiểm nhưng phải theo lệnh cấp trên.

Khi xe và quân tùng thiết tiến lên thì tôi bất ngờ trông thấy anh phóng viên chiến trường núp sau pháo tháp và đang đưa máy hình lên chụp. Anh ta đã đi theo đơn vị tôi lao vào lửa đạn cả ngày rồi nhưng ngồi trên pháo tháp như thế thì thật liều mạng, giận quá tôi quát:

- “Này anh phóng viên, yêu cầu anh xuống xe ngay”.

Tôi hét lớn với người phóng viên đang bám theo xe trong tình trạng hết sức nguy hiểm, nhưng có lẽ vì tiếng máy nổ của M41 lớn quá khiến người phóng viên không nghe được, hoặc cũng có thể anh ta “giả điếc” để cố bám theo toán quân xung phong đầu tiên. Một tay anh bám vào thành xe, một tay bấm máy hình liên tục. Mỗi khi xe lắc lư như muốn hất tung mọi người xuống đất thì anh phóng viên vội buông máy hình treo toòng teng vào cổ còn 2 tay thì bám chặt vào xe. Nguy hiểm quá, nếu không bị bắn thì anh ta cũng bị rớt xuống, sẽ bị xích xe cuốn theo ngay! Không chần chừ được nữa, tôi ra lệnh cho Hạ Sĩ 1 Bùi Ngọc Ðường:

- “Ðường, lôi ngay ông phóng viên xuống đất cho tao”.

Không chậm trễ một giây, người lính cận vệ của tôi nhẩy lên xe ôm ngang lưng người phóng viên rồi nhẩy khỏi xe thiết giáp, cả hai cùng té lộn nhào xuống đất, trong lúc hai người còn đang nhăn nhó chưa kịp đứng dậy thì xe thiết giáp rú ga, gầm lên ủi sập bức tường phía trước mặt, lập tức địch bắn đủ mọi loại vũ khi về phía chúng tôi, xe bị trúng đạn B40, tiếng nổ chát chúa hất tung những người ngồi trên xe xuống đất, thiết giáp chồm lên đống gạch rồi khựng lại phun khói, cả khói xe lẫn khói đạn B40 mịt mù khiến tôi không nhìn thấy gì cả.

Sau vài động tác xoa mặt dụi mắt, tôi mới nhận ra được một cảnh tượng hết sức đau lòng, xe bị đứt xích, người trưởng xa M41 ngồi trong pháo tháp thò đầu ra ngoài thì đã biến đâu mất rồi! Cái nón sắt của anh văng ra xa, móp méo và bê bết máu! Thiếu Úy Nguyễn Văn Quang*, đi sau xe thiết giáp thì đang gượng đứng dậy, 2 tay xoa khắp người xem có bị thương chỗ nào không, Hạ Sĩ Danh Thon, hiệu thính viên của Th/Úy Quang nằm sấp bất động, ngực đè lên máy truyền tin PRC25, tôi lật người Thon lại, một viên đạn xuyên qua máy truyền tin anh đeo trước ngực, xuyên qua áo giáp, trổ ra sau lưng một lỗ nhỏ, máu chưa kịp thấm ra ngoài. (*Thiếu Úy Quang khóa 18 Võ Khoa đã tử trận một năm sau đó.)

Ðảo mắt quan sát một vòng, tôi thấy xung quanh xe thiết giáp vài quân nhân bị thương, chưa biết nặng nhẹ ra sao, cách đó vài mét, người phóng viên ngồi dựa lưng vào tường, mặt nhăn nhó, chắc là lúc bị Ðường kéo té xuống đất đau lắm, nhưng anh ta vẫn còn đủ sức đưa máy lên bấm liên tục. Khi máy nhắm về phía tôi, anh trông thấy người vừa ra lệnh “lôi” anh ấy xuống đất nên anh ta lắc lắc cái đầu tỏ ý “ghê quá” và đưa nắm tay với ngón cái hướng lên trời, không biết ý anh muốn nói là may mắn vừa thoát chết hay là muốn nói cám ơn tôi đã đuổi anh ấy xuống, có thể là cả hai. Tôi tiến lại bắt tay anh và nói đùa:

- “Về nhà nhớ mua heo cúng nghe ông, lần sau ráng giữ lấy cái ‘gáo dừa’”.

Anh nắm chặt tay tôi như muốn nói thêm điều gì nhưng rồi lại vội vàng tiếp tục đưa máy chụp nhiều tấm hình. Ðến lúc này tôi mới biết là xe thiết giáp đã bị 2 trái B40 bắn vào xích và pháo tháp. Pháo tháp là một khối sắt dầy, đạn B40 không phá được nhưng sức nổ đã làm bay những gì xung quanh, sức nổ đã làm bay phần thân trên của anh thiết giáp, còn phần thân dưới có lẽ đã bị đứt ra và lọt vào trong lòng xe rồi! Nếu anh phóng viên còn bám theo pháo tháp để chụp hình thì không biết sẽ ra sao? Tôi không hối hận khi cương quyết đuổi anh ta xuống xe.

Thấy xe bằng sắt mà còn bị đứt huống chi người, thượng cấp không hối thúc tiến nữa mà cho dừng quân để trực thăng (gunship) đến bắn rockets thẳng vào mục tiêu, nhờ vậy chúng tôi mới vượt qua được khoảng trống và tiến nhanh đến giải tỏa địch khu cư xá Phú Lâm.

Bài viết này chúng tôi không chủ tâm viết về trận Mậu Thân mà chỉ muốn nói về chuyện người Phóng Viên Chiến Trường nên chúng tôi không đi vào chi tiết việc binh đao mà xin quay về với người “lính” mang ống kính, máy chụp hình.

Rất hiếm khi có được phóng viên chiến trường ở ngay tuyến đầu tại mặt trận, có chăng là sau khi mọi chuyện đã xong xuôi, báo chí mới tháp tùng theo phái đoàn trung ương đến quan sát trận địa để chụp hình quay phim đưa hình phái đoàn hoặc hình những xác VC, những cây súng gẫy lên báo chí còn những hình người lính chiến thì mờ-mờ ảo-ảo làm nền trang trí.

Nhưng lần này về đánh giặc ngay trong lòng thủ đô nên có dịp nằm cùng phóng viên ngay tuyến đầu, những hình ảnh người lính TQLC xung phong vào lửa đạn đều được các anh chụp và đưa lên các trang nhật báo ngay ngày hôm sau kèm theo tên tuổi đơn vị v.v... như trường hợp phóng viên Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận, những hình ảnh và bản tin của anh viết về Trâu Ðiên trên báo đã được thân nhân gửi ra chiến trường khiến chúng tôi rất hãnh diện. Dù không biết ông Nguyễn Tú nay ở nơi đâu nhưng cũng xin thay mặt anh em để cám ơn ông Tú.

Có những người lính thấy hình mình được đăng trên báo, dù không rõ lắm nhưng cũng thấy thích thú, cắt xén thật cẩn thận để giữ làm kỷ niệm hoặc làm quà tặng cho người yêu. Các cấp chỉ huy thì cất kỹ những trang báo nói về trận đánh của đơn vị mình rồi đóng khung lồng kính treo lên chỗ trang trọng nhất của đơn vị.

Ðối với người lính tác chiến thì những hình ảnh và bài viết của các phóng viên chiến trường về đơn vị họ, nhất là các đơn vị cấp nhỏ như Trung Ðội hay Ðại Ðội, là một niềm an ủi lớn lao, một điều khích lệ vô cùng quan trọng cho tinh thần chiến đấu của họ, nhưng tiếc thay, trong quá khứ, người có trách nhiệm đã không để ý đến “binh sĩ vận” mà chỉ lo “thượng cấp vận”.

Có được người phóng viên đi theo khiến anh em lính chúng tôi lên tinh thần, hơn nữa chuyện anh thoát lưỡi hái của tử thần vừa qua càng làm chúng tôi quý mến nhau hơn nhất là tình cảm giữa anh và Bùi Ngọc Ðường, họ thân nhau như anh em, dù tuổi tác có chênh lệch.

Trong lúc đơn vị tôi tạm đóng quân trong cư xá để chờ nhiệm vụ mới thì anh phóng viên dẫn chúng tôi về nhà, cũng ở trong cư xá Phú Lâm, anh có ý muốn giới thiệu chúng tôi với chị ấy và các cháu, trước khi bước vào nhà anh nói nhỏ với tôi và Ðường:

- “Các anh đừng nói gì về chuyện vừa xẩy ra nhá, sợ bà xã tôi và sấp nhỏ lo lắng”.

Một người vừa yêu nghề lại vừa yêu vợ con nên đôi khi cũng không dám nói sự thật, tôi thông cảm với anh vì tôi vẫn thường nói dối như thế. Mỗi lần về phép, mẹ tôi hỏi đi lính có vất vả không thì tôi không ngần ngừ mà trả lời mẹ ngay:

- “Như đi làm thư ký văn phòng ấy mà”.

Tác giả “Người yêu Trâu Ðiên” và bức ảnh cuối cùng của người Phóng viên chụp con cháu trên nóc nhà ở Phú Lâm xem Trâu Ðiên đánh trận Mậu Thân.

Ðố các anh Trâu Ðiên: Ai là tác giả trong “Ngũ long Công chúa” trong hình?

Anh giới thiệu chị và các con với chúng tôi, có lẽ cũng đến “ngũ long công chúa”, cháu lớn chỉ độ “trăng tròn” là cùng. Thấy lính tráng súng ống vào nhà nhưng lại ngồi uống café hút thuốc nói chuyện vui vẻ với bố nên các cháu an tâm, bạo dạn hơn, thập thò sau màn che, cười khúc khích, kí đầu hoặc vỗ vào lưng nhau “thùm-thụp”.

Một gia đình thật hạnh phúc, tôi ước mong một ngày nào trong tương lai có được mái ấm gia đình như anh, nhưng có lẽ còn lâu lắm, vì anh hơn tôi gần một “con giáp”, hoặc không bao giờ có được hạnh phúc ấy một khi còn “vui đùa” với súng đạn, nghĩ vậy nên tôi tâm sự với anh:

- “Này anh, nếu hôm qua Ðường không ôm anh nhảy xuống đất thì hôm nay đâu còn chầu café này, anh đâu còn nghe tiếng cười khúc khích dễ thương của các cháu, anh phải hết sức cẩn thận khi đi làm phóng sự ngoài chiến trường, hoặc nên đổi nghề, lương không được bao nhiêu mà có quá nhiều nguy hiểm, anh đã có gia đình, các cháu đang nhìn anh kia kìa”.

Tôi chỉ tay vào phía trong nhà, sau bức màn che, thấp thoáng một hai cô bé tóc đuôi gà đang nhìn bố tiếp khách, anh nhìn theo hướng tay tôi chỉ, anh gật gật đầu ra chiều suy nghĩ. Chúng tôi bắt tay từ giã, anh siết chặt tay tôi và nói nhỏ:

- “Anh sẽ để ý và nghiên cứu lại lời khuyên của chú”.

Tôi thật cảm động khi nghe anh xưng “anh” và gọi tôi bằng “chú” (em) mang đậm nét tình nghĩa gia đình. Từ hai người xa lạ, chỉ qua một lần cùng chung nguy hiểm mà chúng tôi trở thành anh em thân thiết hồi nào không hay.

Anh tiễn chúng tôi ra cửa nhưng có tiếng chị dặn với theo:

- “Tối các em nhớ lại ăn cơm canh chua cá kho tộ với các cháu cho vui”.

Vui quá đi chứ, hổm rầy sống giữa thành phố mà cứ phải “nhá” C ration*, thịt hộp 3-lát ngán quá (*thức ăn đóng hộp cho lính hành quân). Nhưng ngay tối đó Ðại Ðội tôi phải di chuyển gấp đến mặt trận Bình Hòa nên không kịp báo tin cho anh chị hay.

Ngày qua ngày TÐ.2 di chuyển khắp nơi, từ nội thành ra tới ngoại ô, từ Nhà Bè sang bến đò Long Kiển, lên Nhị Bình (Lái Thiêu), chỗ nào có bong dáng VC là chúng tôi phải đến. Ðã có lần đơn vị chúng tôi trở lại lục soát khu vực rừng khóm (dứa) (thuộc mật khu Lý Văn Mạnh), rất gần với cư xá Phú Lâm nhưng không có thì giờ ghé thăm anh chị.

Rồi VC tấn công đợt 2, bận túi bụi với những người “anh em” từ bưng về thành, nào là ngã ba Cây Thị, xóm Cao Ðồng Hưng, khu Ðồng Ông Cộ, cầu Bình Lợi, ngã ba Cát Lái v.v... người tử trận kẻ bị thương, chúng tôi không còn thì giờ nhớ đến gia đình, nhớ đến người yêu nên hình dáng người phóng viên cũng mờ dần.

Vào khoảng tháng 10/1968, tình hình Saigon hoàn toàn yên tĩnh trở lại, TÐ.2 được biệt phái cho Quân Ðoàn III để hành quân vào mật khu Hố Bò, Bời Lời. Trước khi đi xa Saigon, Bùi Ngọc Ðường trốn đi chơi nguyên ngày, khi trở lại đơn vị thì vừa kịp nhảy lên xe GMC cùng Ðại Ðội di chuyển đến quận Hiếu Thiện (Tây Ninh) và từ đây được trực thăng vận vào mật khu Bời Lời ngay nên tôi chưa có dịp “thưởng” cho Ðường 5 roi. Cũng may là ngay trong trận này, Bùi Ngọc Ðường cùng với Nguyễn Văn Hợi đã liều mình cứu sống được viên Trung Úy cố vấn Mỹ bị thương và đã bị VC bắt. Nhờ thành tích này mà Ðường được Sư Ðoàn TQLC tưởng thưởng cho một xe Honda và dĩ nhiên tôi cũng tha cho hắn tội trốn đi phố.

Bùi Ngọc Ðường và tôi là hai “thầy trò” nên khi đi hành quân thì như hình với bóng, Ðường luôn ở bên cạnh để giúp tôi khi cần thiết, đi đâu là phải hỏi, vậy mà lần này dám đi cả ngày, đã vậy khi trở về lại có vẻ buồn. Tuy được phòng Tâm Lý Chiến Sư Ðoàn thưởng cho chiếc Honda mà sao Ðường không vui! Và rồi, xe Honda còn trùm mền chờ ngày Ðường về phép để chở người yêu dạo phố thì Ðường lại hy sinh trong một cuộc hành quân sau đó!

Khi Ðường tử trận rồi, Nguyễn Văn Hợi, người cùng với Ðường cứu sống cố vấn Mỹ, mới nói thật với tôi là Ðường trốn đi phố là để về thăm anh phóng viên ở cư xá Phú Lâm, và người anh kết nghĩa này của Ðường đã bị VC hạ sát trong đợt 2 trận Mậu Thân!

Nghe Hợi nói mà tôi bỗng rùng mình, nhớ lại lúc Ðường ôm người phóng viên nhẩy khỏi xe thiết giáp và họ đã thoát không bị nát thây trong gang tấc và rồi họ kết nghĩa anh em, tình huynh đệ chưa được bao lâu thì anh hy sinh mà em không biết! Khi trở lại thăm anh thì... chưa tàn bó nhang thắp cho anh thì em lại tử trận!

Cả hai đều những người tôi thương mến, hình ảnh của họ đã nằm sâu trong ký ức, nào ngờ, 40 năm sau, một sự tình cờ mà hai hình ảnh này sống lại thật rõ ràng trong trí nhớ của những người hay quên hiện tại mà nhớ dai chuyện quá khứ. Ðọc từng dòng từng chữ câu chuyện của N.A, tôi tin chắc người bạn phóng viên chiến trường, người anh kết nghĩa của Trâu Ðiên Bùi Ngọc Ðường chính là thân phụ của tác giả bài viết “Người Yêu Trâu Ðiên” và người lính trong tấm hình mà N.A giấu kín trong tập nhật ký nhỏ có phần chắc là Bùi Ngọc Ðường!!!

Tác giả N.A. kết thúc lá thư không gửi vì không biết anh Trâu Ðiên ở đâu bằng lời chúc:

- “Với lòng mong mỏi anh Trâu Ðiên vẫn còn sống sót đâu đó biết rằng trên mặt đất này vẫn còn có một người nhớ đến anh Trâu Ðiên ngày xưa”.

Phần tôi xin kết thúc bài viết “Trâu Ðiên và Người Phóng Viên” bằng lời nhắn:

“Cô Ngọc Anh ơi, Trâu Ðiên Bùi Ngọc Ðường, người trong tấm hình mà cô giữ kín trong cuốn nhật ký, đã không thể về dự đại hội TQLC năm 2008 được, Ðường không chết nhưng đã nằm lại đâu đó trên chiến trường miền Nam VN, cũng như thân phụ của cô, ông không chết nhưng về với các con bằng thân xác còn nóng hổi, máu chẩy ra linh láng!”

Tôi tin rằng Bùi Ngọc Ðường, người lính trong tấm hình mà cô “nhốt” trong cuốn hồi ký, hay cô nhốt hắn trong tim thì chỉ có hắn biết, hắn sẽ phù hộ cho gia đình cô.

Philato