Home Tin Tức Bình Luận Nhận định tổng quát: 36 năm Việt quốc chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước: thành quả và triển vọng

Nhận định tổng quát: 36 năm Việt quốc chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước: thành quả và triển vọng PDF Print E-mail
Tác Giả: Thiện Ý   
Thứ Hai, 30 Tháng 1 Năm 2012 06:28

      Nội dung bài viết này lần lượt trình bầy:

I/- Lý do chống cộng, động lực chống cộng và  mục tiêu tối hậu phải thành đạt là gì?

II/-Việt quốc đã chống cộng thế nào trong 36 năm qua và hiệu quả ra sao?

III/- Thành quả và Triển vọng tương lai.

* KẾT LUẬN.

I/- LÝ DO CHỐNG CỘNG, ĐỘNG LỰC CHỐNG CỘNG, VÀ MỤC TIÊU TỐI HẬU PHẢI THÀNH ĐẠT LÀ GÌ?

II/-VIỆT QUỐC ĐÃ CHỐNG CỘNG THẾ NÀO TRONG 36
 
III/- THÀNH QUẢ VÀ TRIỂN VỌNG TƯƠNG LAI

        Vấn đề đặt ra là: công cuộc chống cộng 36 năm qua của Việt Quốc đã đem lại thành quả gì và triển vọng tương lai ra sao?

1.- Thành quả (Fruits, results)

    a)- Ý nghĩa từ ngữ:Thành quả khác hiệu quả và thành quả của mỗi hoạt động chống cộng khác thành quả sau cùng của công cuộc chống cộng.

         Chẳng hạn, một cuộc biểu tình chống cộng trước lãnh sự quán Việt cộng tố cáo, lên án nhà cầm quyền Việt cộng bắt bớ, đàn áp, giam cầm những người bất đồng chính kiến đấu tranh ôn hòa cho các quyền dân chủ, dân sinh trong nước. Hoạt động chống cộng này có hiệu quả đối với nội bộ Việt quốc, với đối phương Việt cộng và với công luận quốc tế như chúng tôi đã phân tích trình bầy ở trên, nhưng có thể không đạt thành quả trực tiếp là buộc được nhà cầm quyền Việt cộng phải thả các nhà bất đồng chính kiến bị bắt cầm tù hay chấm dứt đàn áp.

        Tuy nhiên, thành quả này có thể đạt được gián tiếp nếu cuộc biểu tình có kháng thư, thỉnh nguyện thư gửi đến các chính phủ có ảnh hưởng, như Hoa Kỳ chẳng hạn, tạo áp lực buộc được nhà cầm quyền Việt cộng phải làm theo những đòi hỏi của cuộc biểu tình của Việt quốc.(Nếu các chính phủ có ảnh hưởng,như Hoa Kỳ quan tâm, thực sự can thiệp và áp lực bằng một biện pháp hữu hiệu). Thế nhưng đây vẫn chỉ là một thành quả nhất định (hay là thắng lợi từng bước) của một hoạt động đấu tranh chống cộng, tich lũy, phát triển theo thời gian để tạo ra thành quả cuối cùng (Final fruits,final results) hay là thắng lợi sau cùng của công cuộc chống cộng (tiêu diệt nhà cầm quyền và chế độ độc tài Việt cộng, thiết lập chế độ dân chủ đa nguyên).

     b)- Như vậy 36 năm chống cộng Việt quốc chưa tạo được thành quả cuối cùng hay chiến thắng cuối cùng của công cuộc chống cộng, chỉ tạo thành quả của từng hoạt động chống cộng và đạt một phần thành quả toàn cuộc hay một phần chiến thắng sau cùng một cách gián tiếp.

      Theo ý nghĩa từ ngữ trên, nếu Việt quốc coi thành quả toàn cuộc hay là thành quả cuối cùng của công cuộc chống là phải thành đạt mục tiêu tối hậu: tiêu diệt nhà cầm quyền và chế độ độc tài Việt cộng, thiết lập chế độ dân chủ đa nguyên, thì các hoạt động chống cộng 36 năm qua của Việt quốc vẫn chưa đạt thành quả tối hậu này, chỉ có những hiệu quả trong các hoạt động chống cộng nhất định.

    Tuy nhiên, chính những hoạt động chống cộng có hiệu quả đã tác động gián tiếp qua các lực đẩy, lực xoay quốc tế theo chiều hướng chiến lược toàn cầu ,tạo áp lực hiệu quả đối với Việt cộng, để đã có được một phần thành quả tối hậu hay một phần chiến thắng sau cùng của công cuộc chống cộng.

      Một phần thành quả toàn cuộc chống cộng đó là:nhà cầm quyền và chế độ độc tài cộng sản tại Việt Nam trên thực tế đã bị “Biến chất cộng sản” thành “chất tư sản”(đỏ) dù chưa “chuyển thể độc tài toàn trị” qua “Dân chủ đa nguyên”. Một phần thành quả này đã đạt được một cách gián tiếp qua sách lược chống cộng mới của Hoa Kỳ nói riêng và các cường quốc cực nói chung (Chiến lược toàn cầu hóa).

      Bởi vì sách lược mới của Hoa kỳ là “Diệt cộng” trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường”(sau khi không thành công hay không muốn thành công với chiến lược “Diệt cộng” trong “Môi Trường mật đắng” là sức mạnh quân sự qua chiến tranh, trong Chiến Lược Quốc Tế cũ “Chiến tranh ý thức hệ” ).

      Vì rằng “Mật ngọt chết ruồi” (theo ý nghĩa tục ngữ dân gian), trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường”các cán lớn, cán nhỏ đảng viên cộng sản và cả cái “Chính quyền chuyên chính vô sản” Việt cộng đã như những con ruồi sa vào hũ mật, cũng “đã biến chất” và “sẽ biến thể hoàn toàn” ở cuối quá trình tiêu vong.Việt cộng đã và đang bị “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường”hóa thân tịnh tiến theo đúng quy luật duy vật biện chứng“Lượng đổi, chất đổi” (lượng độc tài tiêu vong, lượng dân chủ lớn dần triệt tiêu độc tài, hình thành dân chủ đa nguyên, như nước đun sôi dến 100 độ C thì biến thành thể hơi).

        Trên thực tế,ai cũng thấy sách lược chống cộng mới của Hoa Kỳ dường như không còn chủ trương “ lật đổ để thay thế Việt cộng mà muốn cải tạo Việt cộng thành công cụ chiến lược mới của mình”.

          Hoa Kỳ không chủ trương “Lật đổ để thay thế” có lẽ vì thực tế đã không tìm được một lực lượng chống cộng đối trọng nào khả dĩ có đủ sức mạnh lật đổ và khả năng thay thế Việt cộng, tốt hơn là cải tạo tại chỗ cái chính quyền Việt cộng, biến Việt cộng thành công cụ chiến lược mới trong vùng của mình. Vì vậy mà ngay khi cuộc chiến tranh Quốc- Cộng chấm dứt ít lâu, tài liệu giải mật sau này cho biết là Việt cộng đã để mất cơ hội nắm lấy bàn tay cứu vớt của Hoa Kỳ đưa ra (do đầu óc thiển cận, mang ảo tưởng là kẻ chiến thắng nên làm cao giá đòi Mỹ bồi thường chiến tranh như điều kiện tiên quyết…). Phải đợi 20 năm sau (1975-1995) khi Việt cộng thất bại hoàn toàn cái gọi là công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam,dù cố gắng “Đổi mới” vẫn không cứu vãn được tình hình, một lần nữa Hoa Kỳ đã đưa bàn tay ra và Việt cộng đã không còn dám bỏ lỡ cơ hội vội nắm lấy.

         Đến nay 16 năm trôi qua (1995-2011) Hoa Kỳ đã tương kế tựu kế đổi “Đối thủ Việt cộng trong môi trường mật đắng chiến tranh trong quá khứ” thành “Đối tác Việt cộng trong môi trường mật ngọt kinh tế thị trường trong hiện tại” để tịnh tiến cải tạo, chuyển đổi “Việt cộng độc tài toàn trị” qua “Việt Nam Dân chủ đa nguyên” làm công cụ chiến lược mới của Mỹ trong vùng, theo đúng yêu cầu của thế chiến lược toàn cầu mới của Mỹ và các cực cường nói chung.

        Mỹ đã cải tạo con người về nhân sự lãnh đạo bộ máy Đảng và Nhà nước Việt cộng bằng sự thay thế dần, với sự đẩy đưa sao đó để loại trừ  thành phần lãnh đạo già nua, bảo thủ và cực đoan, duy ý chí, ra khỏi guồng máy quyền lực bằng qui chế 65 tuổi phải về hưu chẳng hạn.Những cán bộ đảng viên tại chức tại quyền thì được cho đi tu nghiệp tại các nước dân chủ tư bản, nhiều nhất vẫn là Hoa Kỳ. Con cái cán bộ đảng viên và cả dân thường có khả năng tài chánh đều được tự do du học tại các nước dân chủ tư bản, đông nhất vẫn là Hoa Kỳ. Thực tế ai cũng có thể suy đoán được kết quả ở cuối quá trình cải tạo con người này là gì.

        Việt cộng chắc cũng biết rõ ý đồ này của Mỹ, nên cho dù “Đảng ta” miệng có la hoảng, cảnh giác đảng viên về cái gọi là “Âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù nghịch”, thì thực tế chân vẫn phải chậy theo và bị “diễn biến ấy” lôi đi xềnh xệch không sao cưỡng lại được. Diễn biến đó là: cán bộ đảng viên cộng sản đã bị tư sản hóa từng bước (trở thành tư bản Đỏ), nhà nước được tư bản hóa từng phần (tiến trình giải tư công, nông, thương nghiệp quốc doanh…), chế độ thì được dân chủ hóa tịnh tiến (đã phải trả lại cho nhân dân nhiều quyền dân chủ, dân sinh so với hơn 15 năm trước đây,dù còn ít nhiều hạn chế…). Dẫu sao, Việt cộng cũng biết rằng đi theo chiều hướng này là tốt nhất,vẫn giữ được phần nào quyền lợi cho một tập đoàn thống trị sau khi “chế độ độc tài toàn trị” phải “Biến thể qua dân chủ đa nguyên”. Một chiều hướng không thể đảo ngược và Việt cộng cũng không có sự lựa chọn con đường nào khác hơn.

         Trong thực tế hiện nay tại Việt Nam, như chúng tôi đã trình bầy nhiều lần, cái gọi là  Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã “Biến chất hoàn toàn” chỉ còn “Đỏ vỏ xanh lòng”. Nghĩa là những bảng hiệu “Đảng và chế độ” chỉ là giả mạo vẫn được trưng lên theo kiểu gian thương “Treo đầu dê bán thịt chó” để thêm thời gian độc quyền thủ lợi của một tập đoàn cố bám giữ thống tri độc quyền mà thôi.

         Vì vậy,trong 36 năm qua,theo nhận định của chúng tôi, tất cả những hoạt động chống cộng nào đi đúng chiều hướng sách lược “diệt cộng” trên đây của Hoa Kỳ, phù hợp với chiều hướng chiến lược toàn cầu mới, đều góp phần gián tiếp tạo ra một phần thành quả nêu trên. Những hoạt động chống cộng nào đi ngược với sách lược này đều là phản tác dụng, làm chậm tốc độ “Biến chất” và “Chuyển thể” Việt cộng theo chiếu hướng chiến lược toàn cầu mới của các cường quốc cực (thị trường tự do hóa toàn cầu về kinh tế, dân chủ hóa toàn cầu về chính trị).

        Tỷ dụ điển hình: sách lược chống Việt cộng mới của Hoa Kỳ đi từ bãi bõ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt cộng, coi Việt cộng là đối tác không còn là đối phương,chủ trương khuyến khích, mở rộng, tăng cường đầu tư vào Việt Nam, để gia tăng “nồng độ ngọt”của môi trường“Mật ngọt kinh tế thị trường” hầu tăng tốc “diệt con ruồi Việt cộng” trong môi trường này.

        Trong khi đó Việt quốc chủ trương và đẩy mạnh các hoạt động chống đầu tư vào Việt Nam, là duy ý chí trái với sự phát triển thực tiễn, nên không có hiệu quả mà còn phản tác dụng.Vì thế trong một số bài viết trước đây, để có hình tượng của hoạt động trái chiều này, chúng tôi đã dùng cụm từ “Chống cộng theo kiểu con lạc đà chui đầu xuống bãi cát” (theo nghĩa bất kể mọi biến chuyển của tình hình thực tế, không điều chỉnh,không cải tiến các hoạt động chống cộng cho phù hợp để có hiệu quả) hay “Chống cộng theo kiểu đánh phèng la”, (tương tự như vai trò của đoàn người đánh phèng la,khua chiêng, gõ mõ khuấy động trong một cuộc đi săn để con mồi hoảng sợ đi vào tầm bắn của người thợ săn để bị giết).

         Vì như trên đã trình bầy, mọi hoạt động dưới mọi hình thức chống cộng 36 năm qua của Việt quốc (Hội thảo, mít-tinh, biểu tình lên án tố cáo Việt cộng…) thực tế đều chỉ có hiệu quả đẩy đưa Việt cộng vào tầm ngắm của áp lực quốc tế để bị “giết chết từ từ” (đẩy đưa lùi dần về phía dân chủ…)

       Chính vì vậy, một phần thành quả nêu trên (Việt cộng biến chất), Việt quốc đã chỉ đạt được gián tiếp qua sách lược chống cộng mới của Hoa Kỳ và quốc tế “Diệt cộng sản hậu chiến tranh lạnh” (toàn cầu) hay “Diệt Việt cộng hậu Chiến tranh Quốc- Cộng” (tại Việt Nam).

c) Vì sao Việt quốc chỉ đạt được hiệu quả, vẫn chưa đạt thành quả sau cùng?

      Bởi vì 36 năm qua Việt quốc đã không làm thay đôi được cán cân lực lượng để mạnh hơn Việt cộng, dù Việt quốc mỗi ngày một mạnh hơn, Việt cộng mỗi ngày một suy tàn, nhưng vẫn chưa sụp đổ, vì Việt cộng biết cách luồn lách thoát hiểm bằng đối sách “Mềm nắn, rắn buông” cố gắng giữ cho cường độ phản kháng của quần chúng nhân dân ở dưới biên độ “Tức nước vỡ bờ” và nhượng bộ có mức độ vừa đủ trước áp lực quốc quốc tế.

     Vì rằng, theo binh pháp cổ kim, trong bất cứ cuộc phân tranh hay chiến tranh nào giữa hai phe, bên nào mạnh sẽ thắng. Việt quốc khởi động giai đoạn chống cộng hậu chiến tranh Quốc-Cộng ở thế yếu so với đối phương Việt cộng. Muốn thắng Việt cộng, Việt quốc phải làm sao ngày một mạnh hơn Việt cộng thì mới thắng đượcViệt cộng, mới giành được thành quả sau cùng.

     Thế nhưng thực tế Việt quốc sau 36 năm chống cộng, dù có phát triển theo chiều hướng ngày một mạnh hơn, song đã không đủ thế lực mạnh hơn Việt cộng để thắng cộng được, dù Việt cộng ngày một suy yếu mà không sụp đổ. Vì sao?- Là vì:

    -Về mặt tổ chức Việt quốc đã không hình thành được một  tổ chức chống cộng thống nhất, đối trọng với Cộng đảng Việt Nam, để lãnh đạo toàn diện công cuộc chống cộng.

   - Về sách lược chống cộng, Việt quốc đã không đưa ra được một sách lược chống cộng toàn diện chung, khả thi,hiệu quả và có sức thuyết phục quần chúng chống cộng hải ngoại, nhất là nhân dân trong nước: rằng sách lược ấy nhất định sẽ tiêu diệt được chế độ độc tài toàn trị cộng sản, và sau đó nhất định Việt quốc sẽ xây dựng thành công chế độ dân chủ đa nguyên và thực hiện một quốc kế dân sinh đem lại cho nhân dân một đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong một xã hội công bình hơn những gì thực tế Việt cộng đã làm từ khi nắm quyền trên một nửa nước (1954-1975) và trên cả nước (1975-1911).

   - Về lực lượng chống cộng,không có các lực lượng võ trang như Việt cộng(quân đội, công an…), chỉ có quần chúng ở hải ngoại và nhân dân trong nước là lực lượng chống cộng chủ yếu của Việt quốc. Nhưng quần chúng nhân dân vốn ô hợp, muốn huy động được sức mạnh này cần được tổ chức và lãnh đạo có hệ thống và quy củ, được huấn luyện, truyên truyền học tập để mọi người tin tưởng, tham gia đóng góp công của vào việc thực hiện sách lược chống cộng toàn diện chung, khả thi và hữu hiệu.

      Thế nhưng thực tế, 36 năm qua cả  ba yêu cầu căn bản tổng quát trên Việt quốc đã không làm được để có sức mạnh vượt trội, làm thay đổi cán cân lực lượng khả dĩ tiêu diệt được Việt cộng, chưa nói gì đến việc Việt quốc vẫn chưa đưa ra được một quốc kế dân sinh ưu việt hơn Việt cộng, khả thi, có tính thuyết phục được quần chúng hải ngoại và nhân dân trong nước. Thực tế cho đến nay vẫn là:

       - Về đối nội:

         Đối với Việt cộng, vẫn chiếm ưu thế về tổ chức, với một đảng cộng sản duy nhất có tính tổ chức và kỷ luật cao, độc chiếm lãnh đạo chính quyền trong một chế độ độc tài toàn trị, có lực lượng võ trang quân đội, cảnh sát công an bảo vệ chính quyền độc tài (chuyên chính vô sản) cai trị nhân dân.

         Sau một thời gian cai trị lâu dài Việt cộng đã thiết lập và củng cố được một hệ thống đảng và chính quyền cai trị bằng chính sách hai mặt: tuyên truyền lừa mị để thuần phục (Bàn tay nhung) và kềm kẹp, sắt máu, theo dõi, kiểm soát từng người dân, trấn áp làm tê liệt sức phản kháng của nhân dân…(Bàn tay sắt), dù mức độ thuần hóa không đến nỗi như nhân dân Bắc Triều tiên dưới chế độ độc tài toàn trì cộng sản Bắc Hàn, sau hơn 60 năm thống trị độc quyền sắt máu của đảng Lao ĐộngTriều Tiên,đã biến nhân dân Triều tiên thành những “người máy”, khóc cười theo sự bấm nút của “Đảng và nhà nước”, hay những “Con Vật người” suy nghĩ, hành động, khóc cười theo lệnh của “Lãnh tụ vĩ đại tối cao” như con chó của thí nghiệp Pavlov : làm theo đúng ý chủ thì được cho ăn một miếng thịt, làm sai thì bị bỏ đói, trừng phạt roi vọt( Vì thế mới có cảnh nghịch lý làm thế giới kinh ngạc, nhân dân Triều Tiên khóc Kim Chính Nhật như cha chết, dù ông ta là một nhà độc tài tàn bạo cha truyền con nối,đứng đầu một tập đoàn thống trị  độc tài đã áp bức, bóc lột, tước đoạt các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền của họ  hơn 60 năm qua , mà nay còn phải khóc thương, phải tung hô và tỏ lòng trung thành tuyệt đối với Kim Chính Vân con trai út Kim Chính Nhật, tuổi đời mới bước qua tuổi trưởng thành, là lãnh tụ vĩ đại, tối cao kế tục sự nghiệp cầm đầu một tập đoàn thống trị sắt máu tiếp tục độc quyền áp bức bóc lột họ! )

   Trong khi đó, Việt quốc ở thế yếu về tổ chức, về nhân sự lãnh đạo, về lực lượng chống cộng và sách lược chống cộng.

    Về tổ chức, Việt quốc không có được một tổ chức chống cộng thống nhất ở hải ngoại cũng như trong nước, được hệ thống hóa theo cấp độ từ thượng tầng cấu trúc đến hạ tầng cơ sở để có thế đấu tranh “cài răng lược  với Việt cộng”.

   Về nhân sự lãnh đạo, Việt quốc không có bộ phận tham mưu lãnh đạo tối cao khả dĩ đối trọng được với vai trò lãnh đạo duy nhất của Cộng đảng Việt Nam.Mặc dầu Việt quốc có số lượng đông đảo người tài giỏi về trí tuệ và khả năng lãnh đạo hơn bộ phận lãnh đạo Việt cộng (Bộ chính trị va Ban Bí thư Cộng đảng Việt Nam), song vẫn không qui tụ được. Thành ra có thể nói nôm na Việt quốc chỉ có “khôn lỏi” cá nhân, cái khôn của 1000 chiếc “Đũa cả” không bó lại được với nhau, so với cái khôn của 100 chiếc đũa con Việt cộng bó lại được với nhau nên vẫn cứng hơn. Nói cách khác Việt quốc “khôn cá nhân” mà “Dại tập thể”, còn Việt cộng “ngu cá nhân” mà “khôn tập thể”

    Về sách lược chống cộng, Việt quốc thiếu một sách lược chống cộng chung cho hải ngoại cũng như trong nước, chống cộng theo kiểu “Đánh võ tự do”, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân hay tập thể lớn nhỏ có cách chống cộng riêng, nên đôi khi vì lý do này hay lý do khác vừa chống cộng, vừa chống phá lẫn nhau tự làm suy yếu nội bộ và chống cộng không hiệu quả.

    Về lực lượng chống cộng, Việt quốc không có lực lượng võ trang, chỉ dựa vào sức mạnh của quần chúng là khối người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại và nhân dân trong nước. Quần chúng thì ô hợp, muốn vận dụng được sức mạnh quần chúng cần phải đoàn ngũ hóa và lãnh đạo đấu tranh theo một sách lược chống cộng chung. Tại hải ngoại cũng như trong nước 36 năm qua, Việt quốc đã chưa làm được việc này.

       Tại hải ngoại, trong bầu không khí tự do, quần chúng tham gia các hoạt động chống cộng có tính tự phát, nặng về cảm tính (căm thù Việt cộng mà tham gia chống cộng, không quan tâm đến hiệu quả ) nên không bền chí đấu tranh, không đều vì thiếu lãnh đạo,thiếu cơ quan tuyên truyền có sách lược để lôi kéo quần chúng tham gia, để quần chúng thấy được, tin tưởng vào sự tất thắng “chính nghĩa quốc gia”, để kiên trì đấu tranh nhằm thành đạt mục tiêu tối hậu của công cuộc chống cộng (Diệt cộng, dân chủ hóa đất nước).

         Vì hoàn cảnh cuộc sống, chính nhân sự trong hàng ngũ lãnh đạo các hoạt động chống cộng ở hải ngoại thuộc các chính đảng hay các tổ chức chống cộng cũng như quần chúng không thể tham gia toàn toàn tâm, toàn lực và toàn thời gian cho công cuộc chống cộng được, chỉ chống cộng theo phong trào, sau mỗi hoạt động chống cộng ai về nhà nấy lo cho cuộc sống cá nhân,gia đình…

        Nhân dân trong nước, sau 36 năm bị Việt cộng cai trị sắt máu, đa số đã an phận chịu đựng dù còn ý thức chống cộng song bị liệt ý chí, đã không dám có hành động phản kháng dù là tự phát cá nhân trong nhiều năm dài. Chỉ trong thời khoảng 15 trở lại đây, do tác động của chiến lược toàn cầu mới, tình hình trong nước biến chuyển theo chiếu hướng “diễn biến hòa bình” như đã trình bầy ở phần trên, ý thức phản kháng của nhân dân trong nước mới dần dần phục hồi, khởi phát trong một bộ phận nhân dân có hoàn cảnh tiếp cận, tiếp thụ những trào lưu tư tưởng dân chủ tiến bộ, nếp sống văn minh, có được nhận thức tiên tiến, bằng hành động chống cộng, đi từ tự phát cá nhân đến tự giác có tính tổ chức. Một số đảng phái, tổ chức đấu tranh mới trong nước đã hình thành. Một vài tổ chức chống cộng ở hải ngoại cũng đã thức thời phát triển tổ chức và đưa hoạt động vào trong nước. Nhưng các tổ chức chống cộng trong ngoài này vẫn chưa đủ lực phát huy sức mạnh của quần chúng tổng nổi dậy lật đổ bạo quyền.

      Việt cộng tất nhiên cũng nhình thấy nguy cơ cần ngăn chặn, nên đã  phải trấn áp, nhưng không còn triệt để và tàn bạo như những thời khoảng trước đây, vì thời thế đã đổi thay, chiếu hướng mới không thể đảo ngược “Độc tài toàn trị cộng sản phải bị tiêu vong từng bước, dân chủ đa nguyên sẽ hình thành ở cuối quá trình tiêu vong này”. Do đó, mọi nỗ lực trấn áp nhân dân của Việt cộng theo kiểu “Mềm nắn, rắn buông” cũng chỉ là để níu kéo thêm thời gian độc quyền thống trị cho Cộng đảng Việt Nam mà thôi.

      - Về đối ngoại.

         Việt Cộng cũng vẫn chiếm ưu thế hơn Việt quốc.

         Đối với Việt cộng, có ưu thế của một quốc gia, có lãnh thổ, nhân dân và một chính quyền, tuy không chính thống, không chính đáng, không chính danh và bất hợp pháp đối với quốc dân Việt Nam (Vì không phải là chính quyền của dân, do dân và vì dân, mà là một chính quyền của đảng, do đảng và vì đảng CSVN), nhưng về đối ngoại được quốc tế thừa nhận thế hợp thức, hợp lệ hay hợp cách (regular government) theo công pháp quốc tế (Vì hội đủ các yếu tố cấu thành một quốc gia: lãnh thổ, dân cư và chính quyền), nên được coi là một chính quyền chính thức (official government) của quốc gia Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, nhưng không nhất thiết, không thể là một chính quyền hợp pháp (Legal government) đối với quốc dân Việt Nam.

        Đối với Việt quốc, thất thế đối ngoại vì không có những yếu tố mà đối phương Việt cộng có. Việt quốc lại đã không tạo được ưu thế trên trường quốc tế bằng chính nghĩa chống cộng của mình, một chính nghĩa phù hợp với chiếu hướng của thế chiến lược toàn cầu mới: “triệt tiêu các chế độc độc tài, kinh tế chỉ huy, hình thành chế độ dân chủ, với kinh tế thị trường tự do”.

       Tạo ra ưu thế đội ngoại, chẳng hạn nếu như ngay từ khởi đầu giai đoạn chống cộng hậu chiến tranh Quốc-Cộng, Việt quốc tiếp tục duy trì Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa (lưu vong),với Lưỡng Viện Quốc hội, Tối Cao Pháp Viện …trên căn bản các Hiệp Định Geneve 1954 và Hiệp Định Paris 1973. Các cơ quan đầu não này sẽ đặt bản doanh ở quốc gia nào cho phép, như Ấn Độ cho phép Chính phủ Tây Tạn lưu vong tá túc sau ngày Tầu cộng thôn tính quốc gia Tây Tạng. Nếu không thì các nhân sự của các cơ quan đầu não này, dựa vào luật pháp quốc gia sở tại thành lập một tổ chức chống cộng thống nhất, lãnh đạo tối cao công cuộc chống cộng, với cơ cấu tổ chức và điều hành các ban ngành như chính quyền của một quốc gia, có ngân sách…để tiến hành công cuộc chống cộng phù hợp với hoàn cảnh thực tế;hoạch định và lãnh đạo thực hiện các hoạt động chống cộng đồng bộ, đều khắp theo một một sách lược chống cộng chung,tạo tư thế tranh thủ sức hậu thuẫn quốc tế trên mặt trận ngoại giao…..

    Tựu chung trên thực tế, Việt quốc chống cộng 36 năm qua vẫn không và vẫn chưa làm được như trên về mặt đối nội cũng như đối ngoại.Vì vậy đã không làm thay đổi được cán cân lực lượng với Việt cộng. Mặc dầu hầu hết các hoạt động chống cộng đều có hiệu quả đem lại những thành quả nhất định, song những hiệu quả và thành quả ấy vẫn chưa “Góp gió thành bão” giật sập chế độ độc tài toàn trị Việt cộng được.

        Nghĩa là, trong quá khứ Việt quốc đã không tạo được sức mạnh và sức nặng thừa đủ để lãnh đạo nhân dân nhận chìm và làm tiêu vong Việt cộng khi thời cơ đến. Chẳng hạn vào thời điểm những năm giữa thập niên 80, khi Việt cộng sa lầy nghiêm trọng vào vũng lầy của những khó khăn chống chất không lối thoát và lòng dân bất mãn đến tột độ, để sau đó Việt cộng đã tự giải cứu bằng con đường “Đổi mới”.

         Nhưng chính sự “Đổi mới” này cũng đã là tiền đề làm tiêu vong Việt cộng về mặt bản thể, đã “biến chất” và sẽ “Biến thể” hoàn toàn ở cuối quá trình tiêu vong. Việt quốc có thể sẽ lại mất cơ hội chủ động giành thành quả cuối cùng ở cuối quá trình tiêu vong này nếu như vẫn duy trì nguyên trạng chống cộng như 36 năm qua.

(Xin coi tiếp: Triển vọng tương lai)

Thiện Ý